Tranh tụng mới có công lý

TRANH TỤNG MỚI CÓ CÔNG LÝ

Tranh tụng mới có công lý

28/05/2013 – 06:25

Nếu coi tranh tụng là nguyên tắc căn bản, xuyên suốt của hoạt động tố tụng thì kiểm sát viên không thể tiếp tục chịu sự chỉ đạo của viện trưởng.

Thảo luận ngày 27-5, nhiều đại biểu Quốc hội cho rằng quy định khi thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, kiểm sát viên tuân theo pháp luật và chịu sự chỉ đạo của viện trưởng VKSND dễ triệt tiêu nguyên tắc tranh tụng.

Theo đại biểu Trần Minh Diệu (Quảng Bình), quy định như trên là không hợp lý. “Khi thực hành quyền công tố, kiểm sát viên theo luật mà làm nhưng viện trưởng chỉ đạo theo hướng khác thì sao? Cái này thực tế đã xảy ra rất nhiều rồi và nhiều cá nhân đã đứng trên cả pháp luật để chỉ đạo những điều sai trái”. Ông Diệu cho rằng pháp luật là tối thượng và không một ai có quyền đứng trên pháp luật nên cần phải bỏ quy định kiểm sát viên chịu sự chỉ đạo về mặt tố tụng của viện trưởng.

Tố tụng không phải là hành chính

Chung nỗi băn khoăn, Phó Chủ tịch nước Nguyễn Thị Doan nói: “Trong một vụ việc nào đó, kiểm sát viên bảo như thế này mới đúng pháp luật, khi báo cáo thì viện trưởng lại bảo thế kia mới đúng. Thế thì sẽ xử lý sao? Cái này đã xảy ra nhiều rồi và đã có những viện trưởng thực hiện không đúng quy định của pháp luật”.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cho rằng kiểm sát viên không thể chịu sự chỉ đạo về mặt tố tụng của viện trưởng. Ảnh: HTD

Là thành viên Ủy ban Dự thảo Hiến pháp, Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường cũng cho rằng kiểm sát viên không thể chịu sự chỉ đạo về mặt tố tụng của viện trưởng. “Cái này không thể quy về hành chính. Hành chính là anh thống nhất từ trên xuống. Còn đây là tố tụng, là chuyên môn. Nếu mệnh lệnh hành chính cả trong tố tụng, như vậy thì kiểm sát viên phải nghe ông viện trưởng, ông viện trưởng ở dưới lại phải nghe ông viện trưởng bên trên. Thế thì cần gì kiểm sát viên ra tòa nữa. VKS cứ đưa cáo trạng, bản luận tội cho chủ tọa phiên tòa đọc là xong. Rồi luật sư nói giời, nói bể thì ông công tố cũng chẳng cần đối đáp vì “cấp trên tôi đã chỉ đạo như thế rồi, tôi không tranh luận lại với anh”.

Tuy nhiên, Phó Chủ nhiệm Ủy ban Tư pháp Lê Thị Nga lại không tán thành các lập luận trên. Bà cho biết khác với tòa án được tổ chức theo cấp xét xử độc lập, VKS hiện được thiết kế theo mô hình, nguyên tắc tập trung thống nhất toàn ngành. Giờ muốn lật lại, để kiểm sát viên giống như thẩm phán – độc lập và chỉ tuân theo pháp luật thì phải bàn cho kỹ lưỡng.

Có tranh tụng, công lý mới được thực thi

Trở lại với nguyên tắc tranh tụng, vốn được các Nghị quyết 08 và 49 của Bộ Chính trị đề cao, Bộ trưởng Cường nhận xét: “Tranh tụng có nghĩa tòa án nghe là chính. Anh nghe xem đại diện VKS truy tố, luận tội và nghe luật sư phản biện, biện hộ, bảo vệ thân chủ thế nào. Nếu anh thấy rằng đại diện VKS nói đúng pháp luật thì anh xử người ta có tội; còn nếu VKS chưa vững chắc và ý kiến của luật sư là đúng thì căn cứ vào các quy định của pháp luật anh tuyên người đó vô tội”.

Theo Bộ trưởng Cường, nếu coi tranh tụng là nguyên tắc căn bản, xuyên suốt của hoạt động tố tụng thì kiểm sát viên không thể tiếp tục chịu sự chỉ đạo của viện trưởng. “Trong báo cáo kiến nghị Hiến pháp của Chính phủ cũng đề xuất bỏ quy định này. Tòa xử phải trên cơ sở tranh tụng thì công lý mới được thực thi” – Bộ trưởng nhấn mạnh.

Cũng liên quan đến quyền tư pháp, theo Bộ trưởng, Hiến pháp không nên đặt chung VKS trong chương TAND. “Nếu chúng ta đã thừa nhận tòa án nắm quyền tư pháp thì nên xem xét lại vị trí đặt VKS. Đất nước chỉ có một quyền lực tư pháp. Theo tôi, nên đặt VKS ở chương các thiết chế hiến định, cùng với kiểm toán, Hội đồng Hiến pháp”.

Cùng với xu hướng khẳng định tòa là cơ quan thực hiện quyền tư pháp, cần tính toán, chuyển đổi dần để VKS tập trung vào chức năng thực hành quyền công tố – điều mà Nghị quyết 08 và Nghị quyết 49 của Bộ Chính trị đã đặt ra từ lâu, lẽ ra lộ trình 2010 đã phải thực hiện. “Đó là quá trình cải cách mang tính cơ bản. VKS khi tập trung vào chức năng công tố sẽ dần trở thành cơ quan chỉ huy về điều tra. Lúc ấy, VKS sẽ chịu hoàn toàn trách nhiệm về tình hình tội phạm của đất nước. Còn như hiện nay rất cắt khúc, VKS hoàn toàn bị động trong công tác phòng, chống tội phạm” – Bộ trưởng Cường nói.

Bỏ quyền kháng nghị của VKS

Ở trước tòa, VKS cũng chỉ là một bên tranh tụng, còn tòa án là quyền lực tư pháp, đại diện cho công lý. Nhưng nhiều khi VKS “đè” cả ý kiến của tòa án bằng cái kháng nghị. Vậy nên tòa xử khác công tố là bị kháng nghị ngay. Như thế chúng ta đã đặt tòa án xuống một vị trí quá thấp, mất hết đi tính uy nghiêm của nhà nước pháp quyền. Ngoài ra, giao cho VKS kiểm sát lại hoạt động tòa án là không nên. Mô hình tư pháp của ta vốn học của Nga, Đông Âu nhưng nay các nước này trong quá trình chuyển đổi đã không cho VKS quyền kháng nghị bản án của tòa án nữa.

Bộ trưởng Bộ Tư pháp HÀ HÙNG CƯỜNG

Không nên quy định tòa thực hiện quyền tư pháp

Tôi rất băn khoăn với quy định mới trong dự thảo là trao cho TAND thực hiện quyền tư pháp. Vậy thì các quyền năng mà VKS, cơ quan điều tra đang thực hiện có phải tư pháp không hay chỉ là hoạt động tư pháp? Hoạt động tư pháp khác gì với quyền tư pháp? Tên Bộ Tư pháp có còn phù hợp nữa không?

Trong đặc thù thể chế của ta, lâu nay vẫn coi tất cả cơ quan tiến hành tố tụng là thực hiện quyền tư pháp. Nay thêm một chữ như thế cho tòa, sẽ rất rối. Vậy nên đề nghị giữ như Hiến pháp 1992.

Về quy định kiểm sát viên chịu sự lãnh đạo của viện trưởng thì đó bắt nguồn từ nguyên tắc tổ chức tập trung toàn ngành. Viện trưởng cấp trên có quyền rút truy tố của viện trưởng cấp dưới. Kèm theo đó, để hạn chế nguy cơ tập quyền quá mức vào viện trưởng, Hiến pháp 1992 hiến định thêm cơ chế Ủy ban kiểm sát – tức kết hợp cả lãnh đạo tập thể và vai trò cá nhân. Thế nhưng Dự thảo Hiến pháp sửa đổi lại bỏ cơ chế này. Như thế là phá vỡ tính tổng thể của mô hình vận hành, kiểm soát quyền lực trong ngành kiểm sát.

Ý kiến thảo luận tổ ĐBQH chiều 27-5 của
Viện trưởng VKSND Tối cao NGUYỄN HÒA BÌNH

THÀNH VĂN

(Nguồn : Báo pháp luật)

ÁN HÔN NHÂN: NHIỀU VƯỚNG MẮC CHỜ LUẬT ĐIỀU CHỈNH

27/05/2013 – 06:25

Luật Hôn nhân và Gia đình có hẳn Chương XI quy định về quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài.

Ngoài ra, còn nhiều văn bản hướng dẫn như các nghị định số 68/2002 và số 24/2013 của Chính phủ, Thông tư số 07/2002 của Bộ Tư pháp, Nghị quyết số 01/2003 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao… Tuy nhiên, tổng kết 12 năm thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình, theo Bộ Tư pháp, thực tế đã phát sinh nhiều trường hợp vướng mắc cần điều chỉnh.

Chẳng hạn, trường hợp công dân Việt Nam đi lao động xuất khẩu rồi trốn ở lại nước ngoài, chồng (vợ) ở nhà mất liên lạc nên muốn ly hôn. Hoặc trường hợp công dân Việt Nam lấy chồng (vợ) là người nước ngoài rồi theo bạn đời ra nước ngoài sinh sống, sau đó bỏ về nước và muốn ly hôn. Lúc này tòa án rất khó giải quyết vì không thể ủy thác tư pháp hoặc ủy thác rồi mà không có kết quả.

Với các trường hợp trên, có ý kiến cho rằng nên sửa luật theo hướng tòa giải quyết cho ly hôn nhưng không giải quyết về tài sản. Nếu sau này các đương sự có tranh chấp về tài sản thì khởi kiện trong vụ án dân sự khác.

Ngoài ra, thực tiễn xét xử phát sinh tình huống hai người nước ngoài kết hôn ở nước ngoài, sau đó sang Việt Nam sống và xin ly hôn tại tòa án Việt Nam. Có tòa thụ lý, có tòa không. Vì vậy rất cần có quy định cụ thể để áp dụng thống nhất.

Nhiều thẩm phán còn cho biết gặp khó khăn với trường hợp đương sự xin ly hôn và tranh chấp bất động sản ở nước ngoài. Luật Hôn nhân và Gia đình quy định “việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn phải tuân theo pháp luật nước nơi có bất động sản”. Vì vậy, xét xử các trường hợp này rất phức tạp bởi vừa vướng thủ tục ủy thác tư pháp vừa phải tìm hiểu, vận dụng pháp luật nước ngoài…

THANH TÙNG

(Nguồn: Báo pháp luật)

BỊ ĐƠN KHÔNG CUNG CẤP “MẪU”GIỌNG NÓI, KHÓ XỬ

27/05/2013 – 06:00

Băng ghi âm được xem là nguồn chứng cứ nhưng không hề có quy định nào bắt buộc đương sự phải cung cấp mẫu giọng nói để cơ quan chức năng giám định, so sánh…

TAND một quận ở TP.HCM đang đau đầu về vụ đòi nợ giữa bà NTP và vợ chồng ông HNT bởi vợ chồng ông T. không chịu cung cấp giọng nói để làm mẫu giám định.

Không giám định được

Theo đơn kiện của bà P., năm 2009, bà kinh doanh vải tại chợ Bình Tiên (quận 6) nên quen vợ chồng ông T. ở sạp kế bên. Tháng 3-2011, vợ chồng ông T. kẹt tiền mua đất, có mượn của bà 200 triệu đồng, hứa sẽ trả trong vòng hai tháng. Tin tưởng, bà cho mượn mà không viết giấy nợ gì cả.

“Đến hạn trả, vợ chồng ông T. cứ hẹn lần hẹn lữa nên tình cảm đôi bên sứt mẻ. Nhiều lần tôi yêu cầu họ viết giấy nợ, họ cũng không làm” – bà P. ấm ức kể.

Tháng 8-2011, trong một lần cãi nhau tại chợ, bà đã dùng điện thoại ghi âm lại để làm bằng chứng về việc vợ chồng ông T. có mượn tiền của bà. Hai tháng sau, bà khởi kiện yêu cầu tòa buộc vợ chồng ông T. trả nợ. Cùng với đơn kiện, bà nộp kèm cho tòa chứng cứ duy nhất là file ghi âm lần cãi nhau nói trên.

Ảnh minh họa: HTD

Bị tòa triệu tập, vợ chồng ông T. phủ nhận chuyện vay tiền của bà P. Khi hai bên đối chất, vợ chồng ông cũng bảo giọng nói trong file ghi âm không phải là giọng nói của họ. Đôi bên tranh cãi quyết liệt, tòa đề nghị giám định file ghi âm. Hai bên đồng ý nhưng vợ chồng ông T. sau đó lại không chịu hợp tác, cung cấp mẫu giọng nói.

Tòa án một quận khác ở TP.HCM cũng gặp tình huống nhức đầu tương tự trong vụ ly hôn của vợ chồng bà M.

Vợ chồng bà M. có một căn nhà chung. Theo người chồng, căn nhà này được hai vợ chồng mua lại của người mẹ vợ với giá 50 lượng vàng từ năm 2005. Khi mua, các bên có viết giấy tay nhưng sau đó bị bà M. xé mất. Còn bà M. thì cho rằng căn nhà là của cha mẹ bà tặng riêng cho bà.

Người chồng cung cấp cho tòa một băng ghi âm mà theo ông có nội dung chứng minh người mẹ vợ đã bán ngôi nhà này cho vợ chồng ông. Sau đó, tòa ra quyết định trưng cầu giám định giọng nói của các đương sự trong băng ghi âm nhưng phía bà M. lại không hợp tác.

Thiếu quy định bắt buộc

Theo vị thẩm phán giải quyết vụ kiện của bà P., muốn giám định băng ghi âm thì bắt buộc các đương sự có tiếng nói trong băng ghi âm phải có mặt tại tổ chức giám định để so sánh, đối chiếu mẫu tiếng nói. Chỉ cần một bên không có mặt, không hợp tác là việc giám định bế tắc. Tòa cũng không biết phải làm sao bởi không có quy định bắt buộc đương sự phải cung cấp mẫu giám định. Không giám định được, tòa không có cơ sở để giải quyết nên án bị kéo dài.

Theo các luật sư Nguyễn Minh Thuận, Nguyễn Thành Công, Nguyễn Minh Luận (Đoàn Luật sư TP.HCM), đây là một lỗ hổng trong pháp luật tố tụng dân sự, các nhà làm luật cần nghiên cứu để điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Nên chăng cần có quy định là trong trường hợp phải giám định để tòa có cơ sở giải quyết án thì những người liên quan phải có nghĩa vụ hợp tác, cung cấp mẫu giám định. Nếu từ chối, không hợp tác thì xem như họ sẽ gặp bất lợi khi tòa đánh giá chứng cứ…

Quy định liên quan

– Chứng cứ

Chứng cứ trong vụ việc dân sự là những gì có thật được đương sự và cá nhân, cơ quan, tổ chức khác giao nộp cho tòa án hoặc do tòa án thu thập được theo trình tự, thủ tục do bộ luật này quy định mà tòa án dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp hay không, cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ việc dân sự.

(Theo Điều 81 BLTTDS)

– Nguồn chứng cứ

Chứng cứ được thu thập từ các nguồn sau đây:

1. Các tài liệu đọc được, nghe được, nhìn được;

(Trích Điều 82 BLTTDS)

– Xác định chứng cứ

2. Các tài liệu nghe được, nhìn được được coi là chứng cứ nếu được xuất trình kèm theo văn bản xác nhận xuất xứ của tài liệu đó hoặc văn bản về sự việc liên quan tới việc thu âm, thu hình đó.

(Trích Điều 83 BLTTDS)

______________________________________

Tòa cần linh hoạt

Để khắc phục, trước mắt các tòa cần linh hoạt vận dụng nguyên tắc đương sự có trách nhiệm phải chứng minh để bảo vệ quyền lợi cho bản thân. Vì vậy khi đương sự không hợp tác thì xem như đương sự thừa nhận theo như yêu cầu cần giám định của bên có yêu cầu.

Một thẩm phán Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM

Tìm chứng cứ khác

Nếu đương sự không hợp tác, tòa vẫn có thể tìm ra những chứng cứ khác như nhân chứng cùng các tài liệu khác để xác định sự thật của vụ án, không chỉ phụ thuộc vào kết quả giám định.

Kiểm sát viên Nguyễn Anh Đức, Bố Trạch (Quảng Bình)

HOÀNG YẾN

(Nguồn: Báo pháp luật)

QUY ĐỊNH ÁN PHÍ TRONG ÁN HÔN NHÂN CHƯA PHÙ HỢP?

26/05/2013 – 23:00

Theo Nghị quyết 01 (ngày 13-6-2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao) nếu vợ, chồng rút đơn xin ly hôn thì sẽ được hoàn lại toàn bộ tiền tạm ứng án phí dù vụ việc đó mới thụ lý hoặc đã đến giai đoạn đưa vụ án ra xét xử.

Chính quy định này đã dẫn đến hệ lụy là trong cuộc sống hôn nhân vợ hoặc chồng có thể nộp đơn xin ly hôn để dọa nhau, nộp rồi sau đó rút đơn thì cũng chẳng phải chịu tốn khoản chế tài nào. Nghĩa là ngân sách Nhà nước chẳng thu được đồng nào nhưng lại phải tốn các chi phí thực hiện tố tụng.

Đặc biệt, một số trường hợp tại phiên tòa, người có yêu cầu xin ly hôn mới rút đơn thì HĐXX sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, hoàn trả lại tạm ứng án phí. Trong khi đó, chi phí phiên tòa (là tiền ngân sách) bỏ ra lại tốn kém không ít. Như vậy, có thể thấy rằng quy định trả lại tiền tạm ứng án phí cho người khởi kiện do rút đơn khởi kiện tại phiên tòa là chưa phù hợp, còn bất cập và thiếu công bằng.

Theo tôi, trong trường hợp người có yêu cầu xin ly hôn rút đơn, từ bỏ ý định ly hôn thì trong giai đoạn trước khi mở phiên tòa, thẩm phán có thể lập biên bản công nhận sự thỏa thuận (hòa giải thành) và các đương sự phải chịu án phí theo quy định.

Trong trường hợp tại phiên tòa, người có yêu cầu ly hôn mới rút đơn thì HĐXX có thể không chấp nhận và vẫn tiến hành xét xử theo quy định để tuyên không chấp nhận đơn khởi kiện và buộc phải chịu án phí. Hoặc tòa án có thể đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192 BLTTDS (các đương sự đã thỏa thuận và không yêu cầu tòa án tiếp tục giải quyết vụ án) để buộc đương sự chịu án phí theo quy định.

MINH KHÁNH

(Nguồn: Báo pháp luật)

 

SẼ MIỄN THI HÀNH ÁN KHÔNG THỂ THI HÀNH?

04/03/2013 – 06:25

Bộ Tư pháp vừa tổ chức tọa đàm góp ý xây dựng nghị quyết của Quốc hội về việc miễn thi hành án khoảng 48.000 việc là khoản thu cho ngân sách Nhà nước không có điều kiện thi hành. Có người ủng hộ nhưng cũng không ít ý kiến băn khoăn…

Theo Bộ Tư pháp, hiện cả nước còn hơn 288.000 việc (tương ứng số tiền khoảng 30.000 tỉ đồng) chưa được thi hành án dứt điểm. Trong đó có khoảng 48.000 việc (tương ứng số tiền gần 700 tỉ đồng) là khoản thu cho ngân sách Nhà nước không có điều kiện thi hành. Đây là số việc mà các cơ quan thi hành án dân sự đã thực hiện đầy đủ các trình tự, thủ tục, đã áp dụng những biện pháp cần thiết để tổ chức thi hành trong nhiều năm qua nhưng vẫn bế tắc.

Các trường hợp nào được miễn?

Vì vậy, Bộ Tư pháp đã đề xuất Quốc hội ban hành nghị quyết miễn thi hành án đối với những khoản thu ngân sách không có điều kiện thi hành nói trên để tiết kiệm được chi phí từ ngân sách, công sức và thời gian của các cơ quan thi hành án dân sự. Bởi lẽ hằng năm, riêng chi phí để xác minh, rà soát đã “ngốn” khoảng 60 tỉ đồng, trong khi không thu được thêm khoản tiền nào…

Theo dự thảo nghị quyết mà Bộ Tư pháp xây dựng, các trường hợp được miễn thi hành án cụ thể như sau:

Thứ nhất là trường hợp người phải thi hành án là cá nhân thuộc hộ nghèo hoặc không thuộc hộ nghèo nhưng bị thiệt hại do thiên tai, hỏa hoạn, ở vùng đặc biệt khó khăn, bị tai nạn, mất khả năng lao động, bị bệnh hiểm nghèo nên không có điều kiện thi hành án.

Làm thủ tục kê biên thi hành án. Ảnh minh họa: HTD

Thứ hai là trường hợp cơ quan thi hành án dân sự đã xác minh nhưng không xác định được địa chỉ, nơi cư trú của người phải thi hành án trong thời hạn ít nhất là năm năm kể từ ngày ra quyết định thi hành án.

Thứ ba là trường hợp doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ chức kinh doanh (gọi chung là doanh nghiệp) đã giải thể hoặc ngừng hoạt động nhưng không xác định được địa chỉ của doanh nghiệp và người nhận chuyển giao quyền nghĩa vụ thi hành án theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.

Thứ tư là trường hợp người phải thi hành án có quốc tịch nước ngoài đã xuất cảnh nhưng không có tài sản ở Việt Nam, cơ quan chức năng đã thực hiện việc tương trợ tư pháp để xác định địa chỉ, tài sản của họ ở nước ngoài nhưng không có kết quả.

Ngoài ra, Bộ Tư pháp còn đề xuất miễn thi hành án đối với án phí cùng các quyết định thu nộp ngân sách trong các bản án hình sự mà vi phạm của người bị kết án đã được Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS năm 2009 quy định không còn là tội phạm.

Còn nhiều băn khoăn

Bà Trịnh Thị Thanh Bình (đại biểu Quốc hội, Chánh án TAND tỉnh Bến Tre) cho rằng nguyên nhân để tồn tại tình trạng án tồn đọng quá lâu không thi hành được, gây mất một nguồn thu lớn cho ngân sách xuất phát từ cơ chế chứ không phải do cơ quan thi hành án. Chẳng hạn, pháp luật hiện chưa có biện pháp nào để ngăn chặn tình trạng “doanh nghiệp ma” bỗng dưng biến mất…

Theo bà Bình, những án tồn không thể thi hành thì cần thiết phải xóa để tránh tốn kém thêm chi phí theo dõi. Tuy nhiên, với trường hợp thi hành án phần dân sự trong bản án hình sự thì cần phải cân nhắc cho hợp lý bởi liên quan đến việc xét đặc xá cho phạm nhân, chuyện xóa án tích…

Ông Nguyễn Công Long (Phó Vụ trưởng Vụ Tư pháp, Văn phòng Quốc hội) thì băn khoăn: “Luật Thi hành án dân sự đã quy định miễn thi hành án cho một số trường hợp không có khả năng thi hành án. Nay nếu ban hành thêm nghị quyết này, hóa ra Quốc hội ban hành hai văn bản khác nhau để điều chỉnh cùng một vấn đề thì chưa ổn. Nên chăng chỉ ra nghị quyết để điều chỉnh một vấn đề cá biệt, chẳng hạn lập một danh sách những trường hợp không thể thi hành án để xin miễn”.

Ông Nguyễn Mạnh Hùng (Vụ trưởng Vụ Kiểm sát thi hành án VKSND Tối cao) cũng thắc mắc: “Tại sao chúng ta không khoanh 48.000 việc này lại, cắt ra để theo dõi riêng? Nó sẽ không phát sinh thêm nữa và cũng không được ghi là án tồn vào năm sau. Làm như thế sẽ không cần phải tốn chi phí xác minh”.

Theo đại diện Viện Phúc thẩm III VKSND Tối cao, với án tồn đọng không thể thi hành thì cần phải phân tích rõ các nguyên nhân chủ quan và khách quan để chấn chỉnh, xử lý. “Nếu đối tượng miễn tràn lan, không rõ ràng thì người dân sẽ không tin công việc mà cơ quan thi hành án làm. Trên thực tế, đối tượng phải thi hành án luôn tìm cách né tránh thi hành án. Vì vậy, đối tượng miễn phải đúng, nếu không sẽ không thể hiện được sự nghiêm minh của pháp luật” – ông nhấn mạnh.

Bức tranh án tồn đã bị hiểu nhầm

Trên thực tế, bức tranh án tồn từ trước đến nay đã bị người dân hiểu nhầm. Khoảng 48.000 việc dự kiến xin miễn thi hành án lần này là những việc không thể thi hành được vì đương sự không có tài sản. Các cơ quan thi hành án dân sự đã trải qua một thời kỳ theo dõi nhưng vẫn không tìm được tài sản. Nguyên nhân hoàn toàn là do khách quan, khi mà cơ quan thi hành án đã áp dụng hết các biện pháp trong nhiều năm nhưng không tìm ra tài sản hay không tìm ra địa chỉ. Nguyên nhân sâu xa hơn nữa cũng không phải lỗi do tòa án mà lỗi do cơ chế. Luật quy định cho phép tòa tuyên mà không thẩm định là mức đó thì đương sự có thể thi hành án được hay không, trong khi ở nước ngoài, người ta còn có hội đồng tư vấn xác minh trước để tuyên cho phù hợp thực tế…

Thứ trưởng Bộ Tư pháp NGUYỄN ĐỨC CHÍNH

Nên chấp nhận

Số tiền khoảng 700 tỉ đồng rất lớn, nếu miễn thì ngân sách Nhà nước sẽ thất thu nhưng nếu để lại cũng không thể thi hành được. Vì vậy, cần nghiên cứu để thuyết phục Quốc hội chấp nhận để tránh tốn thêm khoản tiền theo dõi. Vấn đề đặt ra ở đây là một đương sự đang được xét miễn thi hành án nhưng cũng chính người đó phát sinh thêm nghĩa vụ thi hành án ở một bản án khác thì có được miễn nữa hay không? Hay một người được miễn thi hành án, sau đó phạm tội thì có được tiếp tục miễn án phí… hay không?

Bà TRẦN THỊ HỒNG VIỆTChánh Văn phòng TAND TP.HCM

Xác định rõ đối tượng được miễn

Cần phải có hướng dẫn cụ thể về đối tượng được miễn vì quy định như dự thảo mang tính định tính nhiều hơn. Chẳng hạn, dự thảo nêu người không có tài sản sẽ được miễn nhưng như thế nào được coi là không có tài sản? Tiêu chí hộ nghèo của mỗi tỉnh cũng khác nhau. Vì vậy, chúng ta cần lưu ý chi tiết này.

Bà NGUYỄN ANH HOA,
Phó Giám đốc Sở Tư pháp tỉnh Bình Dương

Còn quy định chưa thực tế

Quy định miễn thi hành án cho người có quốc tịch nước ngoài đã xuất cảnh mà không có tài sản tại Việt Nam với điều kiện đã thực hiện thủ tục tương trợ tư pháp để xác định địa chỉ, tài sản của họ ở nước ngoài nhưng không có kết quả là chưa thực tế. Những án này đã quá lâu rồi không thể thi hành án được. Cạnh đó, có những khoản thu rất nhỏ mà vẫn buộc cơ quan thi hành án thực hiện thủ tục tương trợ tư pháp là rất tốn kém, trong khi hầu như sau đó đều không có kết quả gì.

Một lãnh đạo Cục Thi hành án  dân sự tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu

TIẾN HIỂU

(Nguồn: Báo pháp luật)

XIN VISA Ở LÃNH SỰ MỸ TẠI TP.HCM: 1.001 CHUYỆN CHƯA BIẾT

29/05/2013 07:20

(TNO) Khoảng 8 giờ Lãnh sự quán Mỹ ở TP.HCM mới bắt đầu làm việc nhưng từ 2-3 giờ sáng người dân các tỉnh đã chầu chực trước cổng lãnh sự hay phía bên kia góc đường Lê Duẩn và Lê Văn Hưu (Q.1, TP.HCM) với mục đích xin visa.

“Góc đường này như một xã hội thu nhỏ, có người giàu kẻ nghèo, có buồn vui, có thất vọng, chán nản. Mọi chuyện đều liên quan đến visa”, một người đi xin visa ví von.

Cha mẹ thăm con: Dễ đến… bất ngờ

Bà Hiền, chủ quán cà phê cóc ở góc đường Lê Duẩn – Lê Văn Hưu (Q.1) gần 20 năm nay cho biết thông thường cứ ba giờ sáng là bà đã phải dọn hàng để bán vì nhiều người ở quê lên sớm.

Mở quán sớm, theo bà Hiền, chủ yếu là để phục vụ cho những người ở tỉnh lên làm visa ở Lãnh sự quán Mỹ. Theo quy định phải 8 giờ lãnh sự quán Mỹ mới làm làm việc nhưng từ 2-3 giờ sáng đã có người chầu chực trước cổng rồi. Người đến sớm chủ yếu ở tỉnh xa, đa phần từ các tỉnh miền Tây.

Xếp hàng xin visa ở Lãnh sự quán Mỹ tại TP.HCM – Ảnh: Trung Hiếu

Ông Nguyễn Văn Đức, nhà ở Bình Dương, đưa người con trai đến phỏng vấn xin visa đi du học Mỹ cho hay việc xin visa giống như kiểu “hên xui”. Đối với người này là cực khó nhưng lại cực kỳ dễ dàng với người khác.

Ông Đức kể về lần xin visa sang Mỹ thăm con: “Khi bước vào, đụng với một ông Tây da đen to đùng đùng, mình hơi run. Ông ấy hỏi tôi mấy câu: Con ông tên gì, sang Mỹ ngày tháng năm nào? Ông sang Mỹ làm gì, sao không đưa vợ theo? Tôi cứ từng câu trả lời, xong ông ấy bắt tay chúc mừng. Không ngờ xin visa sang Mỹ dễ thế”.

Bà Trần Văn Thủy, 67 tuổi, quê ở Bến Tre, được người con trai dẫn lên phỏng vấn xin visa thăm cháu nội ở Mỹ kể: “Tôi được hướng dẫn đến quầy số 7 gặp một bà người Tây. Lạ một điều là bà này nói chuyện với tôi bằng tiếng Việt chứ không cần thông dịch. Hỏi được ba câu, bà này bảo tôi đậu rồi. Chuẩn bị đi mua vé máy bay sang thăm cháu đi là vừa”.

Ông Nguyễn Tất Thắng, quê ở Sóc Trăng, lên phỏng vấn xin visa thăm con ở Mỹ cho hay những trường hợp cha mẹ xin visa thăm con rất dễ được chấp nhận.

Râm ran chuyện “bán” visa

Bà Nguyễn Thị Anh Mỹ (quê ở An Giang), có quốc tịch Mỹ, lên Lãnh sự quán Mỹ ở TP.HCM làm thủ tục đổi hộ chiếu cho hay sau vụ gian lận visa, công tác an ninh ở lãnh sự quán Mỹ được siết chặt hơn.

Bà Mỹ cho biết thời gian sống ở tiểu bang California (Mỹ), bà gặp không ít trường hợp người Việt tìm mọi cách “mua” visa qua Mỹ, sau khi sang Mỹ trốn ở đây luôn.

Bà Mỹ nói: “Cách phổ biến nhất, họ sẽ bỏ tiền cưới giả người có quốc tịch Mỹ. Sau khi được cấp thẻ xanh họ sẽ li dị. Nhưng thủ thuật này gần đây đã bị chính quyền Mỹ phát giác”.

Từ Đồng Tháp lên TP.HCM tới Lãnh sự quán Mỹ điều chỉnh giấy tờ, ông Tăng Phụng Hổ – Việt kiều Mỹ – cho hay những trường hợp “chạy” visa rồi sang Mỹ, rồi thuê người có quốc tịch Mỹ kết hôn rất nguy hiểm. Nhiều trường hợp bị chính quyền Mỹ phát hiện vừa bị tội vừa “tiền mất tật mang”.

“Vừa rồi ở California, cảnh sát bắt một lúc mấy chục luật sư chuyên tư vấn cho khách hàng Việt Nam giả kết hôn với người có quốc tịch Mỹ để có thẻ xanh”, ông Hổ nói.

Bản thân ông Thắng có con gái sang Mỹ và lấy chồng bên đó. Năm ngoái, vợ chồng người con mời ba mẹ sang định cư hẳn bên đó. Vợ ông Thắng phỏng vấn lần đầu được cấp visa liền. Cách đây hai tháng, ông Thắng làm thủ tục xin visa và cũng được cấp trong lần đầu tiên phỏng vấn.

Tuy nhiên, theo ông Thắng kể không phải trường hợp cha mẹ xin visa thăm con đều suôn sẻ. Năm trước khi đưa vợ đi phỏng vấn, ông đã chứng kiến cảnh một bà mẹ xin visa thăm con bị rớt khi phỏng vấn.

“Lý do trước đó, bà này làm giả kết hôn và bị nhân viên lãnh sự Mỹ phát hiện. Sau này, người con đủ điều kiện bảo lãnh, bà tiếp tục làm hồ sơ xin visa. Tuy nhiên nhân viên ở đây phát hiện ra bà này từng gian dối lập tức từ chối. Hết cửa sang Mỹ thăm con, bà này khóc tại quầy phỏng vấn”, ông Thắng nói.

Không cấp visa vì người phỏng vấn quá… đẹp

Bà Hiền cho biết đông nhất là đối tượng phỏng vấn xin visa du học nhưng đây là những trường hợp bị rớt nhiều nhất.

“Chưa kể sau khi thông tin bán visa bị phát giác như vừa qua báo chí nêu, rất nhiều người phỏng vấn bị rớt”, bà Hiền nói.

Đây là lần thứ năm ông Trần Văn Thiện, nhà ở Bà Rịa-Vũng Tàu đưa con đi phỏng vấn xin visa sang Mỹ du học.

Ông Thiện kể nhà chủ yếu làm nông, có vài ha trồng tiêu, cộng với nuôi heo nên một năm trừ chi phí, cả gia đình cũng thu được khoảng hơn 200 triệu đồng.

Người con gái đầu của ông Thiện học khá giỏi, năm ngoái thi đậu một lúc hai trường đại học nhưng lại có ước mơ sẽ đi du học. Thương con, vợ chồng ông Thiện sau khi bàn bạc quyết định làm hồ sơ xin visa cho con du học tự túc.

Tuy nhiên, oái ăm là sau bốn lần phỏng vấn, con gái ông Thiện đều rớt với lý do khi thì chưa chứng minh được tài chính, khi thì trình độ ngoại ngữ chưa đủ chuẩn…

“Lần gần đây nhất sau khi phỏng vấn xong, người thông dịch nói chưa thể cấp visa vì con tôi đẹp quá, sang đó dễ trốn đi lấy chồng. Khi không thích cấp, họ tìm đủ mọi cách từ chối. Lần này đưa con đi phỏng vấn cho nó toại nguyện chứ khó đậu lắm”, ông Thiện nói.

Ông Thiện cho hay khi biết Mỹ khó xin visa, gia đình ông cũng tính cho con du học ở Úc nhưng thấy tiền cọc du học ở Úc nặng quá, những hơn 500 triệu đồng, gia đình khó gánh nổi.

“Với lại ở Úc khi sang học thì dễ nhưng khi học xong rất khó ở lại nếu không lập gia đình với người có quốc tịch Úc nên con tôi không thích”, ông Thiện lý giải.

Sao thấy con phỏng vấn rớt visa, gia đình không tìm dịch vụ tư vấn? Ông Thiện cho biết đậu hay rớt visa cũng hên xui chứ không có dịch vụ tư vấn nào dám đảm bảo 100% phỏng vấn là đậu.

Bền bỉ và kiên trì nhất có lẽ là một cậu phỏng vấn xin visa du học tới 13 lần mới đậu. Khi nhìn thấy cậu này vô phòng phỏng vấn, ông Tây phỏng vấn chỉ biết cười lắc đầu, hỏi đúng một câu rồi cho đậu
Bà Hiền – bán cà phê ở góc đường Lê Duẩn – Lê Văn Hưu

Ông Thiện kể: “Có dịch vụ ra giá 10.000 USD bảo đảm đậu visa nhưng cuối cùng họ có làm được đâu. Đứa cháu tôi ở nhà cũng xin visa đi Mỹ, nó học dở, vào Lãnh sự quán Mỹ họ hỏi gì cũng ú ớ hoặc không biết nhưng cuối cùng lại đậu”.

Hơn 11 giờ, con gái ông Thiện phỏng vấn xong đi ra. Nhìn thấy bộ dạng thất thểu của con gái từ xa, ông Thiện biết kết quả lần này không tốt hơn những lần trước.

“Lại rớt rồi ba ạ. Con vào trúng ngay bà nhân viên người Hàn Quốc từng phỏng vấn mình. Bà hỏi con dạo này có gì mới không và hỏi thêm hai câu nữa. Xong rồi bà bảo con chưa đủ điều kiện để được cấp visa và nói xin lỗi”, cô con gái buồn bã đáp.

Nghe xong, ông Thiện đáp: “Đưa con đi phỏng vấn lần này cho con toại nguyện chứ ba cũng không hi vọng con đậu. Bởi nếu đậu thì con đã đậu ở những lần phỏng vấn đầu rồi. Thôi không được học ở Mỹ thì ráng học tốt trường trong nước vậy”.

Kinh nghiệm nhiều lần đi xin visa, ông Nguyễn Tất Thắng, quê ở Sóc Trăng cho hay chỉ cần nhìn dáng đi của người phỏng vấn khi bước ra khỏi cổng lãnh sự Mỹ là ông biết người đó đậu hay rớt.

“Người nào ra cổng đi như bay sang đường là đậu, còn cứ đi chầm chậm, đầu không ngẩng cao chắc chắn rớt”, ông Thắng cười nói.

Bí mật bên trong địa điểm phỏng vấn

Thú thật, cũng như bao nhiêu người khác tôi cũng có chút cảm giác lo âu khi chuẩn bị phỏng vấn xin visa đi Mỹ. Dẫu cho trước đó tôi đã từng xin visa đi những nước thuộc hàng “xương xẩu” như Anh, Pháp, Thụy Điển… Xen lẫn một chút tò mò, không biết khi vào bên trong khuôn viên lãnh sự mình sẽ được đón tiếp như thế nào, đối diện với nhân viên lãnh sự ra sao…

Nhìn hàng người rồng rắn chờ xin visa dọc theo đại lộ Lê Duẩn với trang phục thẳng tắp, có bà, có cô còn diện áo dài, tóc bới hẳn hoi…, cứ như đi dự tiệc nhưng nét mặt đa phần đều căng thẳng. Tôi cũng ít nhiều ngạc nhiên, tại sao mọi người lại có một cảm giác, một tâm lý ít thấy ở lãnh sự quán các nước khác như vậy?

Sau khi xếp hàng làm thủ tục an ninh và gửi lại các thiết bị điện tử như laptop, điện thoại, máy ảnh… mọi người tách làm hai nhánh, một phía dành cho không di dân và một dành cho di dân.

Và điều khiến các cô, các chị lỡ mặc áo dài phải ân hận là khu vực dành cho ngồi chờ phỏng vấn chỉ là hàng hiên có mái che, không phải là những phòng đợi máy lạnh như vẫn tưởng tượng. Ghế ngồi xếp từng hàng như mọi người vẫn thấy ở sân bay, nhà ga Hòa Hưng hoặc các phòng chờ của nhà xe Phương Trang, Thành Bưởi. May mà tôi ăn mặc có phần… mát mẻ, giản đơn.

Trước khi phỏng vấn, mọi người phải lấy dấu vân tay. Hôm tôi phỏng vấn là một cô người Mỹ to cao trực tiếp hướng dẫn. Có phần hồi hộp, tôi tiến tới, chưa kịp nói gì cô ấy đã hướng dẫn rành rọt bằng tiếng Việt: “Bốn ngón tay trái. Bốn ngón tay phải. Ngón cái tay trái. Ngón cái phải. Xong. Ra kia ngồi đợi”. Cũng có phần hụt hẫng cho sự chuẩn bị… từ vựng tiếng Anh của tôi.

Và tôi cũng bất ngờ hơn khi chẳng có phòng riêng nào để mời từng người phỏng vấn. Có 4-5 ô cửa và khi thấy số thứ tự của mình hiện lên trên bảng điện tử báo hiệu đến ô nào thì tiến đến ô đó và… đứng trả lời. Vậy nên, mọi người có thể nghe nhiều đoạn đối đáp thiệt là… vui.

Một bà cụ, nhìn là biết dân miền Tây “chính hiệu”, lụm cụm lên trả lời phỏng vấn. Anh nhân viên ngoại giao hình như người Hàn Quốc nói tiếng Việt thiệt rành: “Bà cụ đi qua Mỹ làm gì đây?”. “Tui đi thăm cháu ngoại chú ơi”. “Bà có mấy đứa cháu?”. “Nhiều lắm tui nhớ hổng xuể”. “Vậy chứ bà cụ có mấy người con?”. “Bảy đứa chú ơi”. “Bà sanh nhiều hen”. “Nhiều gì chú ơi. Có bà ở xóm trên bả sanh tới 9 đứa”. “Vậy chứ qua bển có ai tới đón bà cụ không?”. “Chèn ơi, hổng đón làm sao tui biết đường đi chú?”. “Vậy là xong rồi. Chúc mừng bà cụ nghen”. “Xong là sao chú?”. Anh nhân viên lãnh sự cười và hướng dẫn bà cụ qua quầy đóng tiền chuyển phát nhanh hộ chiếu. Bà cụ đi một lúc rồi lật đật quay lại quầy và nhìn anh nhân viên nói: “Tui cám ơn chú nhiều nghen chú. “Bai” chú hen”. Cả phòng chờ cười rần khiến cho không khí đỡ căng thẳng.

Tới phiên tôi thì cũng trả lời mấy câu đại loại: Ai mời qua đó? Qua đó làm gì? Ở bển có người thân không? Có gia đình chưa? Định ở “bển” bao lâu? Cũng cần hiểu khái niệm người thân ở đây là bà con ruột thịt chứ không phải khái niệm người thân bao gồm cả bạn bè thân thiết như tiếng Việt phong phú của mình định nghĩa vậy.

Và cũng có người khi được hỏi ở bao lâu thì cứ nghĩ là phải cố xin visa một năm nên nói là muốn ở càng lâu càng tốt. Rớt là cái chắc. Đơn giản chỉ là trả lời đúng thời gian chuyến đi đã lên kế hoạch của mình. Ngay cả khi nhân viên lãnh sự hỏi tiếp sau khi nghe tôi trả lời rằng chỉ đi đúng thời gian đã book vé máy bay trước rằng: “Cô có muốn đi Mỹ sau này không?”. Tôi cười đáp: “Tôi sẽ đi qua đó du lịch nếu thu xếp được thời gian”. Vậy là xong phiên phỏng vấn.

Sau này đến con trai của tôi phỏng vấn lại càng giản đơn hơn. Chỉ vỏn vẹn 4 câu. “Qua đó làm gì?”. “Tôi đi du lịch với mẹ”. “Mẹ có visa chưa?”. “Có rồi. Visa đây ông”. “Bên đó có người thân không?”. “Người thân thì không. Bạn bè thì nhiều”. “Sau này có muốn qua Mỹ học không?”. “Năm sau tôi sẽ qua vì tôi sẽ học chuyển tiếp”. Vậy là xong.

Anh Trương Nghiệp Phát, Trưởng phòng Maketing, Công ty Blue Sky Travel cho rằng có ba yếu tố sẽ tác động rất lớn đến các viên chức ngoại giao phỏng vấn. Đó là: “Trung thực. Chính xác. Không ngập ngừng”. Anh Phát cho biết khi trả lời phỏng vấn cứ nhìn thẳng vào người đối diện, không e dè, sợ hãi gì cả. Và đó chính là điều đã giúp cho tôi và con tôi xem chuyện đi xin visa Mỹ cũng chẳng có gì là khủng khiếp như mọi người vẫn nghĩ.

T.Tâm

Trung Hiếu

(Nguồn: Báo Thanh niên )

BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP – KHÓ THAM GIA, DỄ LẠM DỤNG

Thứ tư, 24/04/2013, 15:54 (GMT+7)

Chính sách bảo hiểm thất nghiệp ra đời với mong muốn sẽ là chỗ dựa cho người lao động khi lâm vào tình trạng mất việc làm. Tuy nhiên, sau hơn 4 năm thực hiện, mặc dù đã có nhiều văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành hoặc sửa đổi bổ sung nhưng chính sách bảo hiểm thất nghiệp vẫn còn bất cập.

  • Điều kiện khắt khe

Theo quy định hiện nay, chỉ có những lao động có hợp đồng từ 12 tháng trở lên và làm việc trong những doanh nghiệp sử dụng từ 10 lao động có ký hợp đồng 12 tháng trở lên mới được tham gia bảo hiểm thất nghiệp. Điều đó có nghĩa những lao động có hợp đồng ngắn hạn, hoặc lao động trong các doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động không thuộc diện được tham gia bảo hiểm thất nghiệp, trong khi đây lại là những đối tượng dễ bị mất việc làm nhất, cần được quan tâm hỗ trợ.

Lao động thất nghiệp làm thủ tục hưởng trợ cấp.

Thực tế là lượng người đăng ký thất nghiệp tăng vọt thời gian qua, trong đó có nguyên nhân do khủng hoảng kinh tế, nhưng cũng không ít trường hợp người lao động và doanh nghiệp câu kết với nhau để trục lợi. Vì việc xác định người lao động không còn làm việc hoặc đã bị mất việc đối với chủ cơ sở sản xuất rất dễ dàng. Ngoài ra, quy định này cũng khiến người lao động không an tâm làm việc, muốn tìm chỗ khác với nhiều lý do và điều này sẽ gây mất chủ động cho người sử dụng lao động.Một điểm bất cập khác là quy định trường hợp người lao động đang hưởng trợ cấp thất nghiệp hàng tháng có thể được nhận trợ cấp một lần khi tìm được việc làm, tức là khi họ đã không còn… thất nghiệp. Quy định này dễ khuyến khích người lao động tìm cách trục lợi để hưởng bảo hiểm.

Tại TPHCM, sau 4 năm thực hiện đã có trên 1,6 triệu người lao động tham gia bảo hiểm thất nghiệp và đã chi trả trợ cấp thất nghiệp cho 300.000 người với số tiền khoảng 1.600 tỷ đồng. Chỉ riêng năm 2012, BHXH đã chi trả cho hơn 115.743 người, tăng 31% so với năm 2011. Nếu tính TPHCM hiện có khoảng 5 triệu người trong độ tuổi lao động thì số người tham gia bảo hiểm thất nghiệp chỉ chiếm khoảng 1/3. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp sử dụng dưới 10 lao động có ký hợp đồng từ 12 tháng trở lên.

Thậm chí không ít doanh nghiệp sử dụng trên 10 lao động nhưng chủ sử dụng lao động chỉ ký hợp đồng lao động có thời hạn dưới 12 tháng với người lao động. Và số lao động này có nguy cơ mất việc bất cứ lúc nào nhưng họ lại không được tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

  • Nên quy về một mối

Một bất cập khác là việc quy định cả 2 cơ quan (BHXH và ngành LĐTB-XH) cùng tham gia quy trình chi trả gây quá nhiều khó khăn cho cả đơn vị tham gia chi trả trợ cấp thất nghiệp lẫn người lao động. Trong lúc BHXH Việt Nam không có hướng dẫn quy trình chi trả trợ cấp thất nghiệp qua tài khoản, BHXH TPHCM phải vừa triển khai vừa tự hoàn chỉnh nên dễ xảy ra sai sót; việc thu BHXH, cấp sổ BHXH… thuộc nghiệp vụ của cơ quan BHXH nên khi Trung tâm Giới thiệu việc làm tiếp nhận sổ BHXH thì không hiểu rõ những quy định của ngành BHXH nên việc tiếp nhận, phối hợp xử lý… mất nhiều thời gian.

Ông Cao Văn Sang, Giám đốc BHXH TPHCM, cho rằng việc giải quyết và chi trả trợ cấp cho người thất nghiệp nên giao cho 1 cơ quan chịu trách nhiệm giải quyết và chi trả trợ cấp cho người thất nghiệp: hoặc giao cho cơ quan BHXH chịu trách tiếp nhận, giải quyết, chi trả trợ cấp, ngành LĐTB-XH chỉ thực hiện việc hỗ trợ học nghề, hỗ trợ tìm việc làm hoặc BHXH chỉ có trách nhiệm thu bảo hiểm thất nghiệp rồi giao cho ngành LĐTB-XH làm hết tất cả từ khâu tiếp nhận đến khâu chỉ trả trợ cấp và cơ quan BHXH quyết toán tiền cho cơ quan lao động.

Ông Cao Văn Sang cũng chỉ ra thêm một số bất cập hiện nay trong chính sách bảo hiểm thất nghiệp. Theo quy định mức hưởng trợ cấp thất nghiệp như sau: 3 tháng nếu đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 12 tháng đến dưới 36 tháng; 6 tháng nếu đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 36 tháng đến dưới 72 tháng; 9 tháng nếu đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 72 tháng đến dưới 144 tháng; 12 tháng nếu đóng bảo hiểm thất nghiệp từ 144 tháng trở lên. Với quy định này, người lao động tại TPHCM đã tự xin nghỉ việc khi đóng bảo hiểm thất nghiệp đủ 12 tháng để hưởng 3 tháng trợ cấp rồi xin việc làm mới để được nhận trợ cấp bảo hiểm thất nghiệp 1 lần (thất nghiệp ảo vì thị trường lao động đang thiếu nên dễ xin việc làm). Điều này dẫn đến quỹ bảo hiểm thất nghiệp bị lạm dụng.

Ông Cao Văn Sang đề nghị, cần theo hướng tính mức trợ cấp theo từng năm có đóng bảo hiểm thất nghiệp để tránh bị lạm dụng và khuyến khích người thất nghiệp đi tìm việc. Cụ thể là người thất nghiệp được hưởng tối thiểu 3 tháng trợ cấp thất nghiệp, sau đó cứ mỗi năm đóng bảo hiểm thất nghiệp thì tăng thêm 1 tháng trợ cấp nhưng tối đa không quá 9 tháng.

HỒ VIỆT

(Nguồn: Báo Sài Gòn Giải Phóng)

QUY ĐỊNH MỚI VỀ BẢO HIỂM THẤT NGHIỆP

Chính phủ vừa ban hành Nghị định số 100/2012/NĐ-CP ngày 21-11-2012 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 127/2008/NĐ- CP ngày 12-12-2008 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm thất nghiệp. Nghị định này sẽ có hiệu lực thi hành từ 15-1-2013 với những nội dung chính như sau:

Kéo dài đăng ký đến 3 tháng

Trước hết, bổ sung điều khoản về người lao động nghỉ việc hưởng chế độ thai sản hoặc ốm đau từ mười bốn ngày làm việc trở lên trong tháng, không hưởng tiền lương, tiền công tháng tại đơn vị mà hưởng trợ cấp BHXH; người lao động tạm hoãn thực hiện giao kết hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật thì thời gian này người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp.

Về thời gian đăng ký thất nghiệp được gia hạn đến 3 tháng, (quy định trước đây là trong thời hạn 7 ngày làm việc) kể từ ngày bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc nếu người lao động chưa có việc làm mà có nhu cầu hưởng trợ cấp thất nghiệp thì người lao động thực hiện đăng ký thất nghiệp với cơ quan lao động. Người thất nghiệp là người đang đóng BHTN mà bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc được hưởng bảo hiểm thất nghiệp khi có đủ các điều kiện: đã đóng bảo hiểm thất nghiệp từ đủ 12 tháng trở lên trong thời gian 24 tháng trước khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc theo quy định của pháp luật (tháng đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động được tính nếu người sử dụng lao động và người lao động đã đóng bảo hiểm thất nghiệp, người lao động đã thực hiện hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc ít nhất một ngày trong tháng đó); đã đăng ký thất nghiệp với cơ quan lao động khi bị mất việc làm hoặc chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc; chưa tìm được việc làm sau 15 ngày kể từ ngày đăng ký với cơ quan lao động theo quy định.

Hướng dẫn nộp hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp tại Trung tâm giới thiệu việc làm TPHCM

Quy định về hồ sơ hưởng BHTN bao gồm: đơn đề nghị hưởng bảo hiểm thất nghiệp theo mẫu do Bộ LĐTB-XH quy định; bản sao hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc đã hết hạn hoặc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động hoặc hợp đồng làm việc hoặc xác nhận của đơn vị cuối cùng trước khi thất nghiệp về việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc theo hướng dẫn của Bộ LĐTB-XH; người lao động khi nộp hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp phải xuất trình sổ BHXH hoặc bản xác nhận của cơ quan Bảo hiểm xã hội về việc đóng bảo hiểm thất nghiệp.
Trong thời hạn 5 ngày (tính theo ngày làm việc), kể từ ngày nhận được quyết định hưởng trợ cấp thất nghiệp của cơ quan lao động, cơ quan Bảo hiểm xã hội thực hiện chi trả tiền trợ cấp thất nghiệp hằng tháng hoặc trợ cấp một lần cho người lao động. Trường hợp, cơ quan BHXH không thực hiện việc chi trả theo đúng thời hạn quy định hoặc từ chối yêu cầu chi trả các chế độ bảo hiểm thất nghiệp không đúng quy định của pháp luật thì cơ quan BHXH phải có văn bản thông báo cho cơ quan lao động và người lao động biết và nêu rõ lý do.

Thay đổi mức trợ cấp học nghề

Nghị định mới cũng quy định mức hỗ trợ học nghề cho người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp tùy theo mức chi phí học nghề của từng nghề, mức hỗ trợ học nghề được tính theo tháng trên cơ sở chi phí đào tạo của từng nghề. Mức hỗ trợ học nghề cụ thể theo quy định của Thủ tướng Chính phủ (trước đây chỉ quy định hỗ trợ 300.000 đồng/người). Thời gian được hỗ trợ học nghề phụ thuộc vào thời gian đào tạo của từng nghề và từng người lao động, nhưng không quá 6 tháng. Thời gian bắt đầu để được hỗ trợ học nghề tính từ ngày người lao động được hưởng trợ cấp thất nghiệp hằng tháng.

Nghị định số 100/2012 cũng nêu rõ trách nhiệm của người sử dụng lao động về bảo hiểm thất nghiệp bao gồm: xác định đối tượng tham gia bảo hiểm thất nghiệp và thực hiện thủ tục, trình tự tham gia bảo hiểm thất nghiệp theo quy định của pháp luật; thông báo với cơ quan lao động khi có biến động lao động làm việc tại đơn vị theo hướng dẫn của Bộ LĐTB-XH. Đối với các đơn vị thuộc lực lượng vũ trang, Bộ LĐTB-XH chủ trì, phối hợp với Bộ Công an và Bộ Quốc phòng hướng dẫn thực hiện.

Chủ sử dụng lao động và người lao động phải đóng bảo hiểm thất nghiệp đúng, đủ và kịp thời theo quy định của pháp luật; bảo quản hồ sơ tham gia bảo hiểm thất nghiệp của người lao động và của người sử dụng lao động trong thời gian người lao động làm việc tại đơn vị; xuất trình các tài liệu, hồ sơ và cung cấp thông tin liên quan theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi có kiểm tra, thanh tra về bảo hiểm thất nghiệp; cung cấp thông tin cho người lao động về việc đóng bảo hiểm thất nghiệp của người lao động đó trong thời hạn 2 ngày (tính theo ngày làm việc), kể từ ngày người lao động yêu cầu; cung cấp các văn bản theo quy định tại Khoản 2 Điều 37 Nghị định này cho người lao động để hoàn thiện hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp và thực hiện trách nhiệm khác theo quy định của pháp luật.

Hiếu Nghĩa

(Nguồn: Báo Sài Gòn Giải Phóng)

SAI MỘT LY, ĐI LẠI TỪ ĐẦU

Vợ chồng ông Phạm Ngọc Chương (phường Tân Biên, TP Biên Hòa, Đồng Nai) có nghĩa vụ trả nợ cho bà Nguyễn Thị Thùy Trang gần 800 triệu đồng.

Án có hiệu lực thi hành. Ngày 25-4-2007, Chi cục THADS TP Biên Hòa đã kê biên căn nhà cấp 4 của ông Chương để thi hành án. Do các bên không thỏa thuận được nên Chi cục THADS TP Biên Hòa ký hợp đồng bán đấu giá căn nhà với Trung tâm Dịch vụ bán đấu giá tỉnh (TTDVBĐG), giá khởi điểm hơn 1,6 tỉ đồng. Do không có người đăng ký mua nên phía ông Chương và bà Trang thống nhất giảm giá. Tài sản được thẩm định giá lại và đưa ra bán đấu giá.

Ngày 22-4-2010, TTDVBĐG tỉnh đã tổ chức bán đấu giá tài sản theo thủ tục đặc biệt (đã hết thời hạn đăng ký tham gia đấu giá tài sản mà chỉ có một người đăng ký mua và trả giá ít nhất bằng giá khởi điểm thì tài sản được bán cho người đó, nếu người có tài sản bán đấu giá đồng ý – khoản 1 Điều 19 Nghị định 05 năm 2005). Người trúng đấu giá là bà Trang, giá mua thành là 1,1 tỉ đồng.

Gần năm tháng sau, Chi cục THADS đã cưỡng chế giao nhà ông Chương cho bà Trang. Không đồng ý, ông Chương đã khiếu nại nhưng bị cơ quan này bác đơn nhưng sau đó, Cục THADS tỉnh Đồng Nai cho rằng khiếu nại của nguyên đơn là có cơ sở, việc bán đấu giá đã không tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật…

Ông Chương khởi kiện yêu cầu hủy kết quả đấu giá. Tuy nhiên, xử sơ thẩm hồi tháng 10-2012, TAND TP Biên Hòa đã bác yêu cầu của ông. Xử phúc thẩm mới đây, TAND tỉnh Đồng Nai nhận định: TTDVBĐG tỉnh Đồng Nai đã tổ chức bán đấu giá tài sản theo thủ tục đặc biệt nhưng lại không có sự đồng ý của chủ tài sản, không giao trực tiếp thông báo bán đấu giá, khi thực hiện thủ tục niêm yết công khai lại không niêm yết tại nhà ông (nơi có tài sản), không thông báo dành quyền ưu tiên cho ông được nhận lại tài sản…

Tòa cho rằng kết quả bán đấu giá không hợp lệ, nguyên đơn xin hủy là có căn cứ. TAND TP Biên Hòa bác yêu cầu của ông là không đúng. Cấp sơ thẩm cũng không đưa đầy đủ người vào tham gia tố tụng. Cụ thể, không xác định chồng bà Trang là người có quyền, nghĩa vụ trong vụ án để làm rõ việc vợ chồng bà Trang xây dựng tường rào như thế nào, cũng như chưa làm rõ việc chồng bà Trang không đồng ý cách giải quyết của bà về tài sản trúng đấu giá (cho nguyên đơn chuộc lại). Những thiếu sót trên sẽ dẫn đến việc không thi hành bản án được. Từ đó cấp phúc thẩm đã tuyên hủy án để cấp sơ thẩm giải quyết lại.

PHƯƠNG LOAN

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)

TRUY CỨU ĐẾN CÙNG

06/06/2013 – 06:25

 Xử lý tội lạm dụng không được, cơ quan tố tụng bèn chuyển sang truy cứu tội lừa đảo, trong khi đây chỉ là quan hệ dân sự chậm trả tiền.

Chiều 3-6, Công an huyện Củ Chi (TP.HCM) vừa kết thúc điều tra, đề nghị truy tố anh Đỗ Minh Tâm (xã An Cơ, huyện Châu Thành, Tây Ninh) về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Điều đáng nói là trước đây cơ quan điều tra từng đề nghị khởi tố Tâm về tội này nhưng đã bị VKS từ chối phê chuẩn. Tiếp đó, Tâm bị khởi tố tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nhưng rồi sau đó được đình chỉ.

Chậm trả tiền, bị tố cáo

Từ tháng 12-2005, anh Tâm làm tài xế xe tải cho ông Phạm Văn Hạnh. Công việc của anh là đi tìm mối bán củi cao su, trực tiếp thỏa thuận bán hàng và lái xe giao hàng rồi thu tiền về cho ông Hạnh. Anh liên hệ và bán 21 xe củi cho một công ty ở xã Trung An, huyện Củ Chi. Khách hàng đã trả tiền 10 xe củi, hẹn sẽ trả  tiền 11 xe còn lại (hơn 13 triệu đồng) vào ngày 1-4-2006. Nhưng rồi sau đó ông Hạnh cho anh nghỉ việc do anh lái xe vi phạm bị công an phạt tiền. Đến ngày 1-4-2006, anh Tâm đến công ty bán củi nhận số tiền củi còn lại theo hẹn. Tuy nhiên, thay vì giao trả số tiền này cho ông Hạnh, anh Tâm lại đem tiền đi trả nợ riêng.

Biết chuyện, ông Hạnh đã tố cáo Tâm. Công an xã Định An (huyện Dầu Tiếng, Bình Dương, nơi Tâm đang cư trú) mời đến làm việc. Tâm đến công an hứa sẽ trả tiền cho ông Hạnh và để xe máy lại để đảm bảo việc trả nợ. Sau đó, ông Hạnh đồng ý cho Tâm khất nợ để đi làm phụ hồ kiếm tiền trả.

Năm 2008, Tâm và gia đình chuyển về huyện Châu Thành, Tây Ninh. Tháng 4-2010, anh đến nhà ông Hạnh trả 5 triệu đồng và xin khất một thời gian nữa sẽ trả hết số tiền còn lại. Ông Hạnh đồng ý.

Anh Đỗ Minh Tâm, người từng bị bắt giam, bị truy tố, xét xử rồi đình chỉ nhưng sau lại bị khởi tố tiếp tội khác với cùng một hành vi. Ảnh: PL

Bất ngờ, ngày 14-1-2011, Tâm bị Công an huyện Củ Chi khởi tố tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Ngày 2-4 cùng năm, Tâm bị bắt giam theo lệnh truy nã, gần ba tháng sau thì được cho tại ngoại điều tra.

Ngày 7-4-2011, gia đình Tâm trả tiếp số tiền còn nợ cho ông Hạnh.

Chưa đủ cơ sở kết tội

Tháng 6-2011, TAND huyện Củ Chi đưa vụ án ra xét xử. Tại tòa, công tố viên hỏi: “Sau khi thỏa thuận trả nợ tại xã, bị cáo sống ở đâu?”. Tâm trả lời: “Gia đình chuyển về Tây Ninh, còn bị cáo vẫn ở Bình Dương làm hồ kiếm tiền trả nợ. Bị cáo thuê nhà trọ ở ngay gần nhà ông Hạnh. Ông Hạnh có số điện thoại của bị cáo và vẫn gọi đòi tiền”.

Ông Hạnh công nhận lời khai của Tâm là đúng. “Tháng 4-2010, Tâm đến trả tôi 5 triệu đồng, số còn lại xin trả dần, tôi đồng ý vì nó khổ quá rồi. Tôi nhớ trước khi nó bị bắt mấy ngày, tôi có gọi kêu nó trả tiền” – ông Hạnh trả lời tòa. Phía công ty mua củi không có mặt tại tòa nhưng có lời khai thừa nhận chỉ biết Tâm và giao dịch mua bán với Tâm.

Sau khi kết thúc phần xét hỏi, tòa quyết định trả hồ sơ do chưa đủ cơ sở kết tội. Ngay sau đó, Tâm bị khởi tố tội lừa đảo nhưng VKS đã không phê chuẩn. Sau đó, theo yêu cầu của VKS, công an huyện đã điều tra bổ sung và ngày 4-11-2011 có kết luận nêu rõ: Sau khi nhận tiền 11 xe củi (hơn 13 triệu đồng), Tâm không mang giao cho ông Hạnh mà tiêu xài hết và đến Tây Ninh làm thuê kiếm tiền trả nợ. Đến tháng 4-2010, Tâm trả trước ông 5 triệu đồng. Ông Hạnh đồng ý cho Tâm trả dần số tiền còn lại. Hiện gia đình Tâm đã trả đủ nợ cho ông Hạnh.

Cùng ngày, vụ án được đình chỉ điều tra với lý do “hành vi có dấu hiệu cấu thành tội phạm nhưng do chuyển biến của tình hình không còn nguy hiểm”.

Đòi bồi thường oan, bị khởi tố tiếp

Sau khi được đình chỉ, Tâm gửi đơn khiếu nại khắp nơi, rằng mình bị oan chứ không phải “do chuyển biến tình hình”. Khiếu nại của anh Tâm chưa được giải quyết thì bất ngờ, hơn 16 tháng sau ngày đình chỉ điều tra, tháng 3-2013, Công an huyện Củ Chi lại khởi tố Tâm về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do hành vi của Tâm không phạm vào tội lạm dụng tín nhiệm (trích nguyên văn). Trái với lần trước, lần này VKS huyện lại phê chuẩn quyết định khởi tố tội danh mới này.

Mới đây, ngày 27-5, VKSND TP.HCM có văn bản trả lời đơn khiếu nại của anh Tâm. Theo đó, viện này cho biết đã hủy một số quyết định không đúng, trong đó có quyết định của VKS huyện giải quyết việc Tâm khiếu nại lý do đình chỉ do chuyển biến của tình hình, hành vi phạm tội không còn nguy hiểm. Ngoài ra, viện cho rằng vụ án chưa được điều tra toàn diện, vi phạm tố tụng và vẫn đang tiếp tục điều tra. Đến ngày 3-6 thì Công an huyện Củ Chi có kết luận điều tra như đã nói.

Lẽ ra vụ án đã khép lại…

Đỗ Minh Tâm đưa mắt nhìn ra phía thằng bé con đang chạy lăng xăng chơi ngoài sân. Ngày anh vướng vòng lao lý, vợ anh vừa sinh thằng nhóc này. Mẹ anh (62 tuổi) vừa phải chăm con dâu, vừa phải vay mượn tiền bà con lối xóm để thăm nuôi anh.

Ngồi kế bên, mẹ anh Tâm không kìm được nước mắt. Bà kể thằng Tâm của bà hồi nào giờ nghèo thì nghèo chớ chưa bao giờ lừa ai. “Nhiều bữa thấy người ta lỡ đường vơ vất trước nhà, nó còn kêu vào cho ăn cơm và cho ngủ lại nhà” – bà nói. Rồi bà kể mình phải mang sổ đỏ thế chấp ngân hàng vay 20 triệu đồng, lặn lội 80 cây số đi thăm nuôi khi Tâm bị giam. Khi vụ án được đình chỉ, tưởng yên, nào ngờ 16 tháng sau người ta lại khởi tố con bà tội lừa đảo. “Mỗi lần thằng Tâm nhận giấy triệu tập, cả nhà không ai làm được việc gì vì sợ nó lại bị bắt bỏ tù. Nó bỏ cả công việc cạo mủ thuê – nguồn sống duy nhất của cả nhà, đi xe buýt 80 cây số để đến công an lấy lời khai…”.

Từ ngày Tâm bị khởi tố, tình hình chẳng có gì thay đổi, các tình tiết vụ án cũng không thay đổi. Chỉ thời gian là trôi đi. Lẽ ra qua thời gian, sai phạm phải được quên dần để người ta xây dựng cuộc đời, yên tâm làm ăn. Vậy mà chỉ với hơn chục triệu đồng tiền củi chậm trả cho chủ, Tâm lại bị truy cứu đến cùng, bị làm cho nghiêm trọng hơn những gì nó vốn có.

Phải chăng để né bồi thường oan?!

Theo Điều 139 BLHS, yếu tố cấu thành tội lừa đảo là phải có ý định chiếm đoạt tài sản trước và bằng thủ đoạn gian dối để người khác tin và giao tài sản. Diễn biến vụ án bên cạnh cho thấy giữa anh Tâm và ông Hạnh có một giao kết thực hiện công việc. Theo đó, Tâm tìm mối mua củi, chở củi đi giao với giá mà ông Hạnh đưa ra. Ông Hạnh hoàn toàn tự nguyện, không bị ép buộc, lừa dối trong việc giao củi cho anh Tâm. Hơn nữa, công việc này đã diễn ra liên tục trong vòng ba tháng.

Về quan hệ giữa anh và công ty mua củi, đó là thỏa thuận dân sự mua bán hàng hóa. Công ty nhận củi từ anh và trả tiền cho anh. Khi anh đặt bút ký tên nhận hơn 13 triệu đồng tiền củi, rõ ràng anh đã chịu trách nhiệm về số tiền mình tiếp nhận, không hề gian dối trong cuộc giao dịch với phía công ty. Như vậy không thể nói Tâm bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tiền mà công ty bán củi có nghĩa vụ trả.

Đáng lý nhận tiền rồi, anh phải mang giao lại ông Hạnh. Đằng nàygặp lúc khó khăn, anh dành trả nợ riêng. Hành vi này không cấu thành tội phạm hình sự bởi chỉ là một quan hệ dân sự chậm thanh toán tiền hàng (chiếm dụng vốn, chiếm dụng tiền hàng). Trong các quan hệ dân sự, yếu tố chiếm dụng này cũng rất nhiều…

Một yếu tố bắt buộc trong cấu thành của tội lừa đảo là phải có người bị hại, có thiệt hại xảy ra. Trong vụ án này, tất cả đều làm theo những thỏa thuận dân sự mà pháp luật không cấm, không có ai là người bị hại. Một khi không thỏa mãn yếu tố bắt buộc này thì sẽ không có vụ án lừa đảo.

Có thể nói lý do đình chỉ điều tra anh Tâm trước đây đã không ổn, lý do khởi tố bây giờ càng khó hiểu hơn. Rõ ràng trước đây tình hình không hề thay đổi, tình hình bây giờ cũng không có gì đổi thay. Chỉ còn có một loại “tình hình” khác, đó là nếu thừa nhận khởi tố oan thì sẽ phải bồi thường cho anh Tâm. Phải chăng vì vậy mà người ta mới phải truy cứu đến cùng?!

ThS PHAN ANH TUẤNTrưởng bộ môn Luật hình sự,
Trường ĐH Luật TP.HCM

PHƯƠNG LOAN

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)