TỪ 10-6, GIA HẠN NỘP TIỀN SỬ DỤNG ĐẤT ĐẾN 24 THÁNG

PLO) Đây là nội dung quy định tại Thông tư số 48 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện việc gia hạn nộp tiền sử dụng đất, tiền mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước theo Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 02/01/2014 của Chính phủ, có hiệu lực thi hành từ ngày 10-6.

Theo đó, chủ đầu tư dự án bất động sản được Nhà nước giao đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà để bán, cho thuê; dự án đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng… chưa nộp tiền sử dụng đất, chưa được gia hạn nộp tiền sử dụng đất theo Nghị quyết số 13/NQ-CP hoặc Nghị quyết số 02/NQ-CP thì được xem xét gia hạn nộp tiền sử dụng đất đối với bất động sản theo Nghị quyết số 01/NQ-CP.

Điều kiện để được gia hạn là kết quả tài chính của dự án tính đến ngày 31/12/2013 là lỗ hoặc có giá trị hàng tồn kho của dự án lớn, hoặc doanh nghiệp đã phát sinh chi phí đầu tư của dự án lớn nhưng chưa có doanh thu do chưa bán được hàng.

Thời gian được gia hạn tối đa là 24 tháng kể từ ngày phải nộp tiền sử dụng đất theo thông báo lần đầu của cơ quan thuế hoặc cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và không bị tính tiền chậm nộp trong thời gian này.

Tương tự, hộ gia đình, cá nhân mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước, có hợp đồng mua bán nhà ở được ký đến ngày 31/12/2014 cũng sẽ được xem xét gia hạn nộp tiền mua nhà ở tối đa 24 tháng kể từ ngày hợp đồng mua bán nhà ở được ký kết hoặc từ ngày phải hoàn thành nghĩa vụ tài chính về tiền mua nhà ở theo hợp đồng đã ký kết và không bị tính tiền chậm nộp trong thời gian được gia hạn.

Điều kiện được gia hạn: Nộp đơn đề nghị mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước từ ngày 06/06/2013 và thực hiện cơ chế, giá bán, thủ tục theo Nghị định số 34/2013/NĐ-CP (trường hợp mua nhà ở cũ thuộc sở hữu Nhà nước sau ngày 06/06/2013) hoặc đã ký kết hợp đồng mua bán nhà trước ngày 06/06/2013 mà trong năm 2014 đến thời hạn phải hoàn thành nghĩa vụ tài chính về tiền mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước theo quy định (trường hợp mua nhà ở thuộc sở hữu Nhà nước theo Nghị định số 61/CP.

ĐL

Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM

Đông đảo nhà đầu tư, người mua nhà đến tham quan tại 1 dự án đất nền gần sân bay Long Thành

TRÁNH “BẪY” KHI MUA ĐẤT NỀN

Quý I/2014, thị trường bất động sản TPHCM ghi nhận sự “bứt phá” của phân khúc đất nền khi lượng giao dịch tăng mạnh. Nguyên nhân là thông tư 20 cho phép phân lô bán nền có hiệu lực từ ngày 1/1/2014 đã kích thích thị trường sôi động trở lại.

Giao dịch tăng khả quan Theo báo cáo tình hình bất động sản quý I/2014 tại TPHCM của Savills Việt Nam, thị trường những tháng đầu năm đã có những biến chuyển tích cực, nhất là ở phân khúc đất nền. Mức giao dịch đất nền trong những tháng đầu năm tăng mạnh với mức 31% so với quý trước và tăng 322% so với năm 2013.

Báo cáo của CBRE Việt Nam cũng cho biết doanh số bán hàng của các doanh nghiệp địa ốc đang tăng khá tốt với mức tăng 9,8% so với quý trước và 92,2% so với cùng kỳ năm trước. Theo báo cáo của CBRE Việt Nam, phân khúc đất nền cũng là thị trường đang khởi sắc, đặc biệt là đất nền ở các vùng ngoại thành như quận 8, quận 9 và các tỉnh lân cận như Đồng Nai, Bình Dương.

Đông đảo nhà đầu tư, người mua nhà đến tham quan tại 1 dự án đất nền gần sân bay Long Thành
Đông đảo nhà đầu tư, người mua nhà đến tham quan tại 1 dự án đất nền gần sân bay Long Thành

Bước qua tháng 4, phân khúc đất nền vẫn tiếp tục đà sôi động, đặc biệt là ở khu vực khu lân cận sân bay Long Thành. Những dự án quanh khu vực này đang được chào hàng rầm rộ sau thông tin khẳng định của Chính phủ là sẽ xây dựng sân bay Long Thành trong thời gian gần và một phần đường cao tốc TPHCM – Long Thành – Dầu Giây đã được thông xe.

Giải thích về sự sôi động trở lại của thị trường đất nền, lãnh đạo một doanh nghiệp bất động sản cho biết, ngoài các nguyên nhân kinh tế như lãi suất giảm, điều kiện vay ngân hàng thoáng hơn… thì yếu tố ảnh hưởng lớn nhất là thông tư 20 cho phép phân lô bán nền có hiệu lực. Theo vị này, thông tư cho phép chủ đầu tư chỉ cần làm xong hạ tầng là được bán, giảm được vốn đổ vào dự án. Khách hàng thì hưởng ứng tốt hơn khi có thể mua đất để tự xây nhà.

Theo ông Trương An Dương, Giám đốc nghiệp vụ Tư vấn bất động sản & kinh doanh nhà ở, Savills Việt Nam thì phân khúc đất nền được nhà đầu tư và người mua nhà ưa chuộng do giá bán thấp hơn và linh hoạt trong việc xây dựng. Nguyên nhân chính là vì tâm lý đa số người Việt vẫn thích ở nhà riêng, thích mua đất và tự mình thuê thợ xây, giám sát để có chất lượng xây dựng tốt hơn, đồng thời giảm chi phí thi công…

Cẩn trọng “ách tắc” tiền sử dụng đất

Trước tình hình đất nền sôi động trở lại, các chuyên gia khuyên khách hàng nên cẩn trọng, tránh tình trạng tranh mua tranh bán mà không tìm hiểu kỹ dự án. Bởi trên thị trường đất nền đang diễn ra tình trạng khách hàng mua đất nền dự án không thể xin phép xây dựng vì chủ đầu tư chưa đóng tiền sử dụng đất. Tình trạng này hiện đang diễn ra khá phổ biến ở thị trường TPHCM.

Trước kia, khách hàng chỉ cần được chủ đầu tư giao đất, dựa vào quy hoạch 1/500 để xây dựng. Nhưng nay theo quy định mới, khách hàng phải xin cấp phép mới được xây dựng. Muốn xin phép xây dựng, khách hàng phải có sổ đỏ nhưng vì ở nhiều dự án, chủ đầu tư chưa nộp tiền sử dụng đất nên không thể làm sổ đỏ cho khách hàng. Vậy là dù khách hàng đã được giao đất cũng không thể xây dựng, nhiều dự án đành bỏ hoang.

Cuối tháng 2/2014, tại Hội thảo lấy ý kiến về dự thảo Nghị định thu tiền sử dụng đất và dự thảo Nghị định thu tiền sử dụng đất, thuê mặt nước do Bộ Tài chính tổ chức ở TPHCM, khá nhiều doanh nghiệp bất động sản thừa nhận tình trạng trên. Nguyên nhân họ giải thích là do tiền sử dụng đất quá cao, vượt quá khả năng tài chính của doanh nghiệp nên các dự án đều “ách tắc” lại ở khâu này.

Giám đốc 1 dự án ở quận Bình Tân cho biết ông mất 100 tỷ để mua 2 ha đất từ người dân để làm dự án, khi chuẩn bị đóng tiền sử dụng đất để khởi công thì Sở Tài chính báo số tiền phải đóng đến 104 tỷ đồng, không có tiền đành để đó. Một doanh nghiệp khác đầu tư dự án ở quận 9 cũng thừa nhận dự án của mình phải “trùm mền”, đất phải bỏ hoang là vì không có tài chính đóng tiền sử dụng đất lên đến hàng trăm tỷ đồng.

Trước thực trạng này, các doanh nghiệp đề nghị điều chỉnh cách tính tiền sử dụng đất để giảm tổng số tiền phải đóng hoặc đóng thành nhiều đợt… cho doanh nghiệp “dễ thở” hơn, giúp gỡ rối các dự án đang bị “ách tắc”. Tuy nhiên, trong thời gian chờ chính sách của nhà nước giải quyết vấn đề này, nhà đầu tư và người có nhu cầu mua đất nền vẫn phải cẩn trọng, tìm hiểu kỹ vấn đề tiền sử dụng đất của dự án để tránh rơi vào cảnh “đi không nỡ, ở chẳng xong”.

Theo Tùng Nguyên (Dân Trí)

CHÍNH SÁCH MỚI CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 6/2014

(Chinhphu.vn) – Quy định về cơ cấu biểu giá bán lẻ điện; điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương; người nhiễm  HIV, người sau cai nghiện ma túy được vay vốn ưu đãi; áp trần giá sữa cho trẻ dưới 6 tuổi… là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 6/2014.

Ảnh minh họa

Quy định về cơ cấu biểu giá bán lẻ điện

Theo Quyết định 28/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, có hiệu lực từ 1/6/2014 thì giá bán lẻ điện cho nhóm khách hàng sử dụng điện sinh hoạt chỉ gồm 6 bậc có mức giá tăng dần nhằm khuyến khích sử dụng điện tiết kiệm, hiệu quả.

Tỷ lệ % giá bán lẻ điện sinh hoạt so với mức giá bán lẻ điện bình quân được quy định cụ thể như sau: Điện sinh hoạt từ 0-50 kWh tỷ lệ là 92%; từ 51 – 100 kWh tỷ lệ này là 95%; từ 101 – 200 kWh là 110% (hiện khoảng này được chia thành hai nấc, từ 101 – 150 kWh và 151-200 kWh); từ 201-300 kWh là 138%.

Ngoài ra, trong bảng giá cho điện sinh hoạt, khi khách hàng sử dụng từ 301 – 400 kWh thì mức tính từ 1/6 chỉ bằng 154% giá điện bình quân, giảm so với tỉ lệ 155% như hiện nay. Từ trên 401 kWh trở lên, giá điện sinh hoạt vẫn là 159%.

Giá bán lẻ điện cho sản xuất cũng được điều chỉnh. Nếu hiện nay nhóm giá bán lẻ điện cho sản xuất được tách thành 2 nhóm: các ngành sản xuất và bơm nước tưới tiêu thì Quyết định 28/2014/QĐ-TTg chỉ quy định chung một nhóm giá bán lẻ điện cho các ngành sản xuất với mức giá bán tăng 1% đối với giờ thấp điểm.

Bên cạnh đó, Quyết định mới cũng quy định giá bán điện cho chiếu sáng công cộng và đơn vị hành chính sự nghiệp chung một mức giá. Cụ thể, đối với cấp điện áp từ 6kV trở lên là 99% giá điện bình quân; cấp điện áp dưới 6kV là 103% giá điện bình quân.

Giá bán lẻ điện cho kinh doanh cũng giảm 5% so với hiện nay đối với giờ bình thường, giảm 3% đối với giờ thấp điểm và 8% đối với giờ cao điểm cho cấp điện áp từ 6-22 kV còn 9% đối với giờ cao điểm cho cấp điện áp dưới 6 kV.

Điều kiện đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương

Theo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Cư trú có hiệu lực từ ngày 15/6/2014, công dân đang tạm trú nếu có đủ 3 điều kiện dưới đây thì được đăng ký thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương:

1- Có chỗ ở hợp pháp tại thành phố trực thuộc trung ương.

Chỗ ở hợp pháp có thể thuộc quyền sở hữu, sử dụng của công dân hoặc được cơ quan, tổ chức, cá nhân cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ theo quy định của pháp luật. Đối với chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn hoặc ở nhờ của cá nhân, tổ chức tại thành phố trực thuộc trung ương phải bảo đảm điều kiện về diện tích bình quân theo quy định của Hội đồng nhân dân thành phố.

2- Có thời gian tạm trú liên tục tại thành phố trực thuộc trung ương từ một năm trở lên đối với trường hợp đăng ký thường trú vào huyện, thị xã thuộc thành phố trực thuộc trung ương; từ hai năm trở lên đối với trường hợp đăng ký thường trú vào quận thuộc thành phố trực thuộc trung ương.

Trường hợp tạm trú liên tục tại nhiều chỗ ở khác nhau thì thời gian tạm trú liên tục được tính bằng tổng thời gian tạm trú tại các chỗ ở đó.

Nghị định cũng nêu rõ, thời hạn tạm trú liên tục được tính từ ngày công dân đăng ký tạm trú đến ngày công dân nộp hồ sơ đăng ký thường trú. Giấy tờ chứng minh thời hạn tạm trú là Sổ tạm trú cấp cho hộ gia đình hoặc cấp cho cá nhân theo mẫu quy định của Bộ Công an.

3- Nơi đề nghị được đăng ký thường trú phải là nơi đang tạm trú.

Riêng trường hợp đăng ký thường trú vào nội thành TP Hà Nội thực hiện theo quy định tại khoản 4 Điều 19 Luật Thủ đô và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Thủ đô.

Hệ số tối đa nhuận bút tác phẩm báo in, báo điện tử từ 10-50

Theo Nghị định quy định về chế độ nhuận bút trong lĩnh vực báo chí, xuất bản, có hiệu lực thi hành từ 1/6/2014, đối tượng được hưởng nhuận bút, thù lao đối với tác phẩm báo in, báo điện tử gồm: 1- Tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả có tác phẩm được cơ quan báo chí sử dụng; 2- Lãnh đạo cơ quan báo chí, biên tập viên và những người tham gia thực hiện các công việc có liên quan đến tác phẩm báo chí; 3- Người sưu tầm tài liệu, cung cấp thông tin phục vụ cho việc sáng tạo tác phẩm báo chí.

Khung nhuận bút cho tác phẩm báo in, báo điện tử được quy định hệ số tối đa là 10 đối với tin, trả lời bạn đọc, tranh, ảnh. Đối với thể loại chính luận, phóng sự, ký (một kỳ), bài phỏng vấn, sáng tác văn học, nghiên cứu thì hệ số tối đa là 30. Riêng thể loại trực tuyến, Media thì hệ số tối đa là 50.

Đối với tác phẩm báo nói, báo hình thì hệ số tối đa cho thể loại tin, trả lời bạn đọc là 10; đối với thể loại chính luận, phóng sự, ký (một kỳ), bài phỏng vấn, sáng tác văn học, nghiên cứu, hướng dẫn khoa học giáo dục là 30 và tọa đàm, giao lưu là 50.

Trong đó, giá trị một đơn vị hệ số nhuận bút bằng 10% mức tiền lương cơ sở.

5 trường hợp chấm dứt trước hạn hợp đồng cho thuê tài chính

Theo Nghị định về hoạt động của công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính có hiệu lực từ ngày 25/6/2014, có 5 trường hợp chấm dứt trước hạn hợp đồng cho thuê tài chính gồm:

1- Bên thuê không thanh toán tiền thuê hoặc vi phạm một trong các điều khoản, điều kiện khác là căn cứ chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính, được quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính.

2- Bên thuê bị tuyên bố phá sản, giải thể.

3- Bên cho thuê vi phạm một trong các điều khoản, điều kiện là căn cứ chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính, được quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính.

4- Tài sản cho thuê bị mất, hỏng không thể phục hồi sửa chữa.

5- Bên cho thuê và bên thuê đồng ý để bên thuê thanh toán toàn bộ tiền thuê còn lại trước thời hạn thuê quy định trong hợp đồng cho thuê tài chính.

Bên cho thuê và bên thuê quy định cụ thể trong hợp đồng cho thuê tài chính việc chấm dứt hợp đồng cho thuê tài chính theo quy định.

Người nhiễm  HIV, người sau cai nghiện ma túy được vay vốn ưu đãi

Theo Quyết định 29/2014/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, hộ gia đình và người nhiễm HIV, người sau cai nghiện ma túy, người điều trị nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng thuốc thay thế, người bán dâm hoàn lương sẽ được vay vốn ưu đãi.

Mức cho vay căn cứ vào nhu cầu vay và khả năng trả nợ của từng cá nhân, hộ gia đình và không phải thế chấp nhưng không vượt quá 20 triệu đồng/cá nhân; 30 triệu đồng/hộ gia đình. Người vay có thể vay vốn nhiều lần nhưng tổng dư nợ không vượt quá mức dư nợ cho vay tối đa theo quy định trên.

Lãi suất cho vay bằng lãi suất cho vay hộ nghèo theo từng thời kỳ do Chính phủ quy định. Lãi suất nợ quá hạn được tính bằng 130% lãi suất cho vay.

Thời hạn cho vay tối đa là 60 tháng. Thời hạn cụ thể do Ngân hàng Chính sách xã hội và cá nhân, hộ gia đình vay vốn thỏa thuận phù hợp với chu kỳ sản xuất, kinh doanh và khả năng trả nợ của khách hàng. Trong giai đoạn thí điểm (2014 – 2016), áp dụng thời hạn cho vay tối đa là 36 tháng.

Quyết định có hiệu lực từ ngày 15/6/2014.

Cho vay ưu đãi đối với các dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học – công nghệ

Theo Nghị định về điều lệ tổ chức và hoạt động của Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ Quốc gia, Quỹ tài trợ không hoàn lại hoặc một phần cho việc thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ do các tổ chức, cá nhân đề xuất.

Bên cạnh đó, hỗ trợ hoạt động nâng cao năng lực khoa học và công nghệ quốc gia, bao gồm: Tham gia hội nghị, hội thảo quốc tế của nhà khoa học trẻ; nghiên cứu sau tiến sỹ; thực tập nghiên cứu ngắn hạn ở nước ngoài;…

Ngoài ra, Quỹ cho vay không lấy lãi hoặc lãi suất thấp đối với dự án ứng dụng kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vào sản xuất và đời sống. Quỹ cũng bảo lãnh vốn vay đối với các nhiệm vụ khoa học và công nghệ chuyên biệt do Thủ tướng Chính phủ giao thực hiện với nguồn vốn riêng.

Nghị định có hiệu lực từ ngày 1/6/2014.

10 cơ quan chuyên môn được tổ chức thống nhất ở tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố

Theo Nghị định quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (cấp huyện) có hiệu lực từ ngày 20/6/2014, có 10 cơ quan chuyên môn được tổ chức thống nhất ở tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh gồm: 1- Phòng Nội vụ; 2- Phòng Tư pháp; 3- Phòng Tài chính – Kế hoạch; 4- Phòng Tài nguyên và Môi trường; 5- Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội; 6- Phòng Văn hoá và Thông tin; 7- Phòng Giáo dục và Đào tạo; 8- Phòng Y tế; 9- Thanh tra huyện; 10- Văn phòng Hội đồng nhân dân (HĐND) và UBND hoặc Văn phòng UBND nơi thí điểm không tổ chức HĐND.

Ngoài 10 cơ quan chuyên môn được tổ chức thống nhất ở tất cả các quận, huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nêu trên, tổ chức một số cơ quan chuyên môn để phù hợp với từng loại hình đơn vị hành chính cấp huyện. Cụ thể, ở các quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh có phòng Kinh tế, phòng Quản lý đô thị; ở các huyện có phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, phòng Kinh tế và Hạ tầng.

Riêng phòng Dân tộc, Nghị định quy định, việc thành lập Phòng Dân tộc do UBND cấp tỉnh trình HĐND cùng cấp quyết định căn cứ tiêu chí quy định tại Điểm a Khoản 3 Điều 2 Nghị định 53/2004/NĐ-CP về kiện toàn tổ chức bộ máy làm công tác dân tộc thuộc UBND các cấp.

Về tổ chức các cơ quan chuyên môn ở các huyện đảo, Nghị định quy định, căn cứ vào các điều kiện cụ thể của từng huyện đảo, UBND cấp tỉnh trình HĐND cấp tỉnh quyết định số lượng và tên gọi các phòng chuyên môn thuộc UBND huyện đảo. Số lượng cơ quan chuyên môn của UBND huyện đảo không quá 10 phòng.

Hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng phải thường xuyên, liên tục

Theo Nghị định 26/2014/NĐ-CP về tổ chức và hoạt động của Thanh tra, giám sát ngành Ngân hàng có hiệu lực từ ngày 1/6/2014, việc giám sát ngân hàng sẽ được tiến hành thường xuyên, liên tục.

Nghị định 26/2014/NĐ-CP nêu rõ, nguyên tắc thanh tra, giám sát ngân hàng phải bảo đảm tập trung, thống nhất trong chỉ đạo, thực hiện nhiệm vụ từ Trung ương đến địa phương; tuân theo pháp luật; bảo đảm chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ, kịp thời; giám sát ngân hàng được tiến hành thường xuyên, liên tục.

Đồng thời, thanh tra, giám sát việc chấp hành chính sách, pháp luật sẽ kết hợp với thanh tra, giám sát rủi ro trong hoạt động của đối tượng thanh tra ngân hàng, đối tượng giám sát ngân hàng; kết hợp chặt chẽ giữa thanh tra ngân hàng và giám sát ngân hàng…

Áp trần giá sữa cho trẻ dưới 6 tuổi 
Theo Quyết định 1079/QĐ-BTC của Bộ Tài chính có hiệu lực từ ngày 1/6/2014, giá trần của mặt hàng sữa trong khâu bán buôn, áp dụng đối với 25 mặt hàng sữa. Trên cơ sở mức giá tối đa của 25 sản phẩm này, tổ chức, cá nhân căn cứ vào phương pháp định giá chung đối với hàng hóa, dịch vụ do Bộ Tài chính ban hành và so sánh về giá của sản phẩm sữa đó với sản phẩm sữa đã công bố giá tối đa, xác định giá cho sản phẩm rồi gửi cho cơ quan có thẩm quyền quản lý giá trực thuộc Bộ Tài chính.

Quyết định cũng nêu rõ trách nhiệm của cơ quan quản lý giá trực thuộc Bộ Tài chính là: Hướng dẫn thực hiện Quyết định này, tiếp nhận hồ sơ đăng ký về giá tối đa để thực hiện rà soát chi phí hình thành giá tối đa, kiểm soát việc đăng ký giá theo quy định của pháp luật đối với tổ chức, cá nhân thuộc diện đăng ký giá tại Bộ Tài chính… Đồng thời, phải công khai mức giá tối đa sản phẩm sữa của tổ chức, cá nhân thuộc diện đăng ký giá tại Bộ Tài chính.

Quy định mới về cấp biển số xe

Theo Thông tư số 15/2014/TT-BCA quy định về đăng ký xe, cơ quan chức năng cấp biển số xe ngay sau khi tiếp nhận hồ sơ đăng ký xe hợp lệ. Trường hợp cấp mới, đổi lại giấy chứng nhận đăng ký xe; cấp hồ sơ sang tên, di chuyển xe; cấp giấy chứng nhận thu hồi đăng ký, biển số xe thì thời gian hoàn thành thủ tục không quá 2 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

Trường hợp cấp lại giấy chứng nhận đăng ký xe bị mất thì thời gian xác minh và hoàn thành thủ tục không quá 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ.

Thông tư nêu rõ, ngay khi có quyết định điều chuyển, bán, cho, tặng xe, chủ xe phải thông báo bằng văn bản đến cơ quan đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký xe đó để theo dõi.

Trường hợp chủ xe không thông báo thì tiếp tục phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về chiếc xe đó đến khi tổ chức, cá nhân mua, được điều chuyển, cho, tặng xe làm thủ tục đăng ký sang tên, di chuyển xe.

Bên cạnh đó, Thông tư cũng quy định, trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày làm chứng từ chuyển quyền sở hữu xe, tổ chức, cá nhân mua, được điều chuyển, cho, tặng xe phải đến cơ quan đăng ký xe làm thủ tục đăng ký sang tên, di chuyển xe.

Nghiêm cấm mọi hành vi giả mạo hồ sơ, đục xóa số máy, số khung để đăng ký xe.

Thông tư có hiệu lực từ ngày 1/6/2014.

Hướng dẫn gia hạn nộp tiền sử dụng đất

Bộ Tài chính ban hành Thông tư hướng dẫn thực hiện việc gia hạn nộp tiền sử dụng đất, tiền mua nhà ở thuộc sở hữu nhà nước theo Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 2/1/2014 của Chính phủ.

Thông tư quy định rõ đối tượng áp dụng gồm các chủ đầu tư dự án bất động sản được Nhà nước giao đất có thu tiền sử dụng đất mà chủ đầu tư đã được bàn giao đất để thực hiện dự án đầu tư xây dựng nhà để bán, cho thuê, cho thuê mua; dự án đầu tư xây dựng kinh doanh kết cấu hạ tầng để chuyển nhượng hoặc cho thuê; dự án đầu tư xây dựng công trình có nhiều mục đích sử dụng khác nhau trong đó có mục đích xây dựng nhà để bán, cho thuê, cho thuê mua theo quy định của pháp luật về kinh doanh bất động sản chưa nộp tiền sử dụng đất thì được gia hạn nộp tiền sử dụng đất theo Nghị quyết số 01/NQ-CP.

Dự án bất động sản chưa nộp tiền sử dụng đất được xác định là dự án mà chủ đầu tư chưa hoàn thành việc nộp tiền vào ngân sách nhà nước (bao gồm cả trường hợp mới nộp được một phần vào ngân sách nhà nước) theo thông báo lần đầu của cơ quan thuế hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền (đối với trường hợp không có thông báo của cơ quan thuế) theo quy định của pháp luật.

Việc gia hạn nộp tiền sử dụng đất đối với chủ đầu tư dự án bất động sản thực hiện theo từng dự án và tính trên số tiền sử dụng đất (bao gồm cả số tiền sử dụng đất được xác định bổ sung theo quy định của pháp luật) còn phải nộp vào ngân sách nhà nước (không bao gồm số tiền chậm nộp (nếu có) theo quy định của pháp luật về quản lý thuế).

Đối với dự án đầu tư xây dựng công trình có nhiều mục đích sử dụng khác nhau trong đó có mục đích xây dựng nhà để bán, cho thuê, cho thuê mua thì số tiền sử dụng đất được gia hạn tính theo diện tích phân bổ cho các mục đích xây dựng nhà để bán, cho thuê, cho thuê mua.

Thông tư có hiệu lực từ ngày 10/6/2014.

Quy định về hóa đơn áp dụng từ ngày 1/6

Thông tư 39/2014/TT-BTC hướng dẫn thi hành Nghị định 51/2010/NĐ-CP và Nghị định 04/2014/NĐ-CP của Chính phủ quy định về hoá đơn bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ có hiệu lực thi hành từ ngày 1/6/2014.

Thông tư 392014/TT-BTC được ban hành thay thế thông tư 64/2013/TT-BTC, quản lý chặt chẽ hơn doanh nghiệp được tự in hoá đơn, đặt in hoá đơn và mở rộng đối tượng mua hoá đơn của cơ quan thuế; trong đó có doanh nghiệp có rủi ro cao về thuế và doanh nghiệp có hành vi vi phạm về hoá đơn.

Cụ thể Thông tư 39/2014/TT-BTC có nhiều điểm mới so với Thông tư 64/2013/TT-BTC.

Về đối tượng được tự in hoá đơn, sửa đổi mức vốn điều lệ đối với doanh nghiệp được tự in hóa đơn kể từ khi có mã số thuế từ mức vốn điều lệ 1 tỷ đồng thành 15 tỷ đồng trở lên tính theo số vốn đã thực góp đến thời điểm thông báo phát hành hóa đơn.

Doanh nghiệp, tổ chức cung ứng phần mềm hoá đơn phải báo cáo cho cơ quan thuế trực tiếp quản lí về việc cung cấp phần mềm hoá đơn theo quý thay vì theo 6 tháng 1 lần như quy định tại Thông tư 64/2013/TT-BTC.

Thông tư 39 cũng quy định cá nhân không còn được tạo hóa đơn đặt in mà chuyển sang sử dụng hóa đơn mua của cơ quan thuế.

Doanh nghiệp nhận in hóa đơn đặt in phải báo cáo cho cơ quan thuế trực tiếp quản lí về việc nhận in hóa đơn theo quý thay vì 6 tháng 1 lần.

Về đối tượng mua hóa đơn của cơ quan thuế, bổ sung thêm 3 nhóm đối tượng mua hóa đơn của cơ quan thuế gồm: Tổ chức kinh doanh, doanh nghiệp nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp theo tỷ lệ % nhân với doanh thu; Doanh nghiệp đang sử dụng hóa đơn tự in, đặt in thuộc loại rủi ro cao về thuế; Doanh nghiệp đang sử dụng hóa đơn tự in, đặt in có hành vi vi phạm về hóa đơn bị xử lý vi phạm hành chính về hành vi trốn thuế, gian lận thuế.

Bộ Tài chính cũng nêu rõ, từ ngày 1/6/2014, cơ quan thuế không tiếp nhận Thông báo phát hành hóa đơn xuất khẩu.

Hoàng Diên

Nguồn: baodien tu.chinhphu.vn

CHÍNH SÁCH MỚI CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 4/2014

(Chinhphu.vn) –  Xử lý nghiêm hành vi vi phạm hành lang bảo vệ an toàn lưới điện cao áp; chuẩn hóa giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh; mức phí bán đấu giá cổ phần và các loại chứng khoán;… là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 4/2014.

Ảnh minh họa

Xử lý nghiêm hành vi vi phạm hành lang bảo vệ an toàn lưới điện cao áp

Khi phát hiện hành vi vi phạm về hành lang bảo vệ an toàn lưới điện cao áp, đơn vị quản lý phải yêu cầu dừng ngay các hành vi vi phạm. Đây là trách nhiệm của đơn vị quản lý vận hành lưới điện cao áp được quy định tại Nghị định 14/2014/NĐ-CP của Chính phủ.

Theo quy định tại Nghị định, đơn vị quản lý vận hành lưới điện cao áp có trách nhiệm kiểm tra thường xuyên hành lang bảo vệ an toàn lưới điện cao áp trong phạm vi quản lý của mình. Khi phát hiện hành vi vi phạm, phải yêu cầu đối tượng vi phạm dừng ngay các hành vi vi phạm, báo cáo và phối hợp với cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại địa phương lập biên bản xử lý các hành vi vi phạm đó.

Đơn vị quản lý vận hành cũng phải kiểm tra, sửa chữa, bảo dưỡng lưới điện đúng thời hạn quy định; không vận hành quá tải đối với đường dây phía trên nhà ở, công trình xây dựng.

Nghị định có hiệu lực từ ngày 15/4/2014.

Chuẩn hóa giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh

Nghị định quy định chi tiết và biện pháp thi hành Luật giáo dục quốc phòng và an ninh có hiệu lực thi hành từ ngày 10/4/2014, trong đó quy định trình độ chuẩn giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh.

Cụ thể, giáo viên giáo dục quốc phòng và an ninh phải có một trong các trình độ chuẩn: 1- Có bằng cử nhân giáo dục quốc phòng và an ninh; 2- Có bằng tốt nghiệp đại học chuyên ngành khác và chứng chỉ đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh; 3- Có văn bằng 2 về chuyên ngành đào tạo giáo viên giáo dục quốc phòng và an ninh.

Giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh phải có một trong các trình độ chuẩn: 1- Có bằng cử nhân giáo dục quốc phòng và an ninh trở lên; 2- Cán bộ quân đội, công an có bằng tốt nghiệp đại học trở lên; 3- Có bằng tốt nghiệp đại học trở lên chuyên ngành khác và chứng chỉ đào tạo giáo viên, giảng viên giáo dục quốc phòng và an ninh và chứng chỉ bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm.

Mức phí bán đấu giá cổ phần và chứng khoán

Từ ngày 1/4/2014, mức thu và sử dụng phí bán đấu giá cổ phần và các loại chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán được thực hiện theo quy định tại Thông tư 09/2014/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành.

Thông tư quy định, mức thu phí bán đấu giá chứng khoán áp dụng tại Sở Giao dịch chứng khoán là 0,3% trên tổng giá trị cổ phần/mỗi loại chứng khoán thực tế bán được, tối đa là 300 triệu đồng/1 cuộc bán đấu giá cổ phần/mỗi loại chứng khoán.

Giá trị cổ  phần, chứng khoán bán được dùng để tính mức thu phí cho một cuộc đấu giá bao gồm cả giá trị bán được qua phương thức thỏa thuận trực tiếp với các nhà đầu tư đã tham dự đấu giá (trong trường hợp bán thỏa thuận tiếp số cổ phần, chứng khoán không bán hết từ cuộc đấu giá).

Mức thu phí bán đấu giá chứng khoán áp dụng tại các tổ chức được phép tổ chức bán đấu giá cổ phần theo quy định của pháp luật do các bên tự thỏa thuận nhưng mức thu không vượt quá 0,3% trên tổng giá trị cổ phần và các loại chứng khoán thực tế bán được.

Mức thu phí bán đấu giá chứng khoán tối thiểu áp dụng tại Sở Giao dịch chứng khoán và các tổ chức được phép tổ chức bán đấu giá cổ phần và các loại chứng khoán theo quy định là 20 triệu đồng/1 cuộc bán đấu giá cổ phần/mỗi loại chứng khoán.

Nhiều hỗ trợ với các cụm công nghiệp

Theo Thông tư liên tịch 26/2014/TTLT-BTC-BCT hướng dẫn trình tự lập, quản lý, sử dụng kinh phí khuyến công quốc gia và kinh phí khuyến công địa phương, trong hoạt động khuyến công quốc gia, chi hỗ trợ sửa chữa, nâng cấp hệ thống xử lý ô nhiễm môi trường tại các cụm công nghiệp mức hỗ trợ tối đa 30% chi phí, nhưng không quá 1.500 triệu đồng/cụm công nghiệp.

Chi hỗ trợ lập quy hoạch chi tiết cụm công nghiệp. Mức hỗ trợ tối đa 50% chi phí, nhưng không quá 500 triệu đồng/cụm công nghiệp.

Chi hỗ trợ đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng cụm công nghiệp; bao gồm: San lấp mặt bằng, đường giao thông nội bộ, hệ thống cấp nước, thoát nước tại các cụm công nghiệp. Mức hỗ trợ không quá 3.000 triệu đồng/cụm công nghiệp… Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 8/4/2014.

Quy định mức phí ủy thác tư pháp về dân sự

Từ ngày 1/4/2014, mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự được thực hiện theo Thông tư 18/2014/TT-BTC do Bộ Tài chính ban hành.

Đối tượng nộp phí là tổ chức, cá nhân có yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự mà làm phát sinh thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam ra nước ngoài; tổ chức, cá nhân nước ngoài có yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự của nước ngoài tại Việt Nam thì phải nộp phí thực hiện uỷ thác tư pháp về dân sự theo quy định khi nộp hồ sơ yêu cầu thực hiện ủy thác tư pháp.

Thông tư quy định rõ mức thu phí thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự. Theo đó, phí thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự của Việt Nam ra nước ngoài 150.000 đồng/hồ sơ. Phí thực hiện ủy thác tư pháp về dân sự của nước ngoài tại Việt Nam 1.000.000 đồng/hồ sơ.

Ưu tiên mua sắm sản phẩm CNTT sản xuất trong nước

Theo Thông tư số 01/2014/TT-BTTTT quy định chi tiết về ưu tiên đầu tư, mua sắm sản phẩm, dịch vụ công nghệ thông tin sản xuất trong nước sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước, chủ đầu tư, Thủ trưởng các cơ quan, tổ chức chủ trì đầu tư, mua sắm khi sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước hoặc vốn có nguồn gốc ngân sách Nhà nước để đầu tư, mua sắm, thực hiện các dự án ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin, phải ưu tiên các sản phẩm, dịch vụ trong nước đáp ứng các tiêu chí trên.

Trường hợp do yêu cầu kỹ thuật đặc thù của dự án, Chủ đầu tư không đầu tư, mua sắm sản phẩm, dịch vụ trong nước trong Danh mục quy định thì phải lập hồ sơ giải trình và thực hiện theo quy định.

Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 08/4/2014.

Điều kiện nhập khẩu ô tô Việt kiều hồi hương

Theo Thông tư 20/2014/TT-BTC quy định việc nhập khẩu xe ô tô, xe mô tô theo chế độ tài sản di chuyển của công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài đã được giải quyết đăng ký thường trú tại Việt Nam, xe ô tô nhập khẩu theo chế độ tài sản di chuyển phải đảm bảo điều kiện đã đăng ký lưu hành ở nước định cư hoặc nước mà công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài đến làm việc (khác với nước định cư) ít nhất là 6 tháng và đã chạy được một quãng đường tối thiểu là 10.000 km đến thời điểm ô tô về đến cảng Việt Nam.

Xe ô tô nhập khẩu vào Việt Nam phải đáp ứng quy định về kiểm tra chất lượng an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường xe cơ giới nhập khẩu.

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 1/4/2014.

Phải trang bị phương tiện bảo vệ cho người lao động độc hại, nguy hiểm

Thông tư số 04/2014/TT-BLĐTBXH hướng dẫn thực hiện chế độ trang bị phương tiện bảo vệ cá nhân cho người lao động làm nghề, công việc có yếu tố nguy hiểm, độc hại có hiệu lực từ ngày 15/4/2014.

Phương tiện bảo vệ cá nhân bao gồm: Các phương tiện bảo vệ đầu; mắt, mặt; thính giác; cơ quan hô hấp; tay, chân; thân thể; phương tiện chống ngã cao; chống điện giật, điện từ trường; chống chết đuối và các loại phương tiện bảo đảm an toàn, vệ sinh lao động khác.

Người lao động trong khi làm việc chỉ cần tiếp xúc với một trong những yếu tố nguy hiểm, độc hại sau thì được trang bị phương tiện bảo vệ các nhân: 1- Tiếp xúc với yếu tố vật lý xấu; 2- Tiếp xúc với bụi và hóa chất độc hại; 3- Tiếp xúc với yếu tố sinh học độc hại, môi trường vệ sinh lao động xấu; 4- Làm việc với máy, thiết bị, công cụ lao động, làm việc ở vị trí mà tư thế lao động nguy hiểm dễ gây ra tai nạn lao động; làm việc trên cao; làm việc trong hầm lò, nơi thiếu dưỡng khí; làm việc trên sông nước, trong rừng hoặc điều kiện lao động nguy hiểm, độc hại khác.

Quản lý người nước ngoài học tập tại Việt Nam

Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa ban hành quy chế quản lý người nước ngoài học tập tại Việt Nam, được thực hiện từ 11/4/2014.

Quy chế này quy định công tác quản lý người nước ngoài học tập tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân của Việt Nam, bao gồm: học sinh tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp; sinh viên cao đẳng, đại học; học viên chương trình đào tạo thạc sĩ; nghiên cứu sinh; học viên chương trình bồi dưỡng nâng cao trình độ; thực tập sinh.

Theo đó, lưu học sinh (LHS) phải đáp ứng các điều kiện về học vấn, chuyên môn, sức khỏe, độ tuổi, hồ sơ.

Cụ thể, LHS vào học chương trình trung học phổ thông, trung cấp chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học, thạc sĩ, tiến sĩ phải có văn bằng tốt nghiệp tối thiểu tương đương văn bằng tốt nghiệp của Việt Nam quy định với từng cấp học và trình độ đào tạo. Đồng thời đạt yêu cầu về trình độ tiếng Việt theo quy định đối với từng trình độ đào tạo và chương trình đào tạo…

Bên cạnh đáp ứng các điều kiện về sức khỏe, LHS thỏa mãn các điều kiện về tuổi đối với LHS Hiệp định thực hiện theo các Hiệp định, Thỏa thuận của Việt Nam ký kết với các nước, vùng lãnh thổ và tổ chức quốc tế. Không hạn chế tuổi đối với LHS học bổng khác và LHS tự túc.

Từ 8/4, thống nhất một cách tính diện tích căn hộ theo kích thước thông thủy

Đây là một trong những nội dung được quy định tại Thông tư số 03/2014/TT-BXD của Bộ Xây dựng sửa đổi, bổ sung Điều 21 của Thông tư số 16/2010/TT-BXD quy định cụ thể và hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định số 71/2010/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Nhà ở.

Cụ thể, diện tích sử dụng căn hộ được tính theo kích thước thông thủy và được ghi vào Giấy chứng nhận cấp cho người mua, bao gồm cả phần diện tích tường ngăn các phòng bên trong căn hộ và diện tích ban công, lô gia (nếu có) gắn liền với căn hộ đó, không tính tường bao ngôi nhà, tường phân chia các căn hộ, diện tích sàn có cột, hộp kỹ thuật nằm bên trong căn hộ.

Nộp phạt xây dựng sai phép, không phép

Bộ Xây dựng đã ban hành Thông tư số 02/2014/TT-BXD trong đó hướng dẫn xác định giá trị phần xây dựng sai phép, không phép, sai thiết kế được duyệt, sai quy hoạch hoặc sai thiết kế đô thị được duyệt, có hiệu lực thi hành từ 2/4/2014.

Theo Khoản 9 Điều 13 Nghị định số 121/2013/NĐ-CP, đối với một số hành vi vi phạm quy định về tổ chức thi công xây dựng, mà không vi phạm chỉ giới xây dựng, không gây ảnh hưởng các công trình lân cận, không có tranh chấp, xây dựng trên đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp thì ngoài việc bị xử phạt vi phạm hành chính, còn bị buộc nộp lại số lợi bất hợp pháp có được bằng 40% giá trị phần xây dựng sai phép, không phép đối với công trình là nhà ở riêng lẻ và bằng 50% giá trị phần xây dựng sai phép, không phép, sai thiết kế được phê duyệt hoặc sai quy hoạch xây dựng hoặc thiết kế đô thị được duyệt đối với công trình thuộc dự án đầu tư xây dựng hoặc công trình chỉ yêu cầu lập báo cáo kinh tế – kỹ thuật xây dựng công trình. Sau khi chủ đầu tư hoàn thành việc nộp phạt thì cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép xây dựng hoặc điều chỉnh giấy phép xây dựng.

Thông tư 02 của Bộ Xây dựng đã hướng dẫn cụ thể nội dung này của Nghị định số 121/2013/NĐ-CP. Theo đó, các quy định trên chỉ được áp dụng đối với trường hợp khi người có thẩm quyền phát hiện hành vi vi phạm hành chính thì hành vi này đã kết thúc, công trình xây dựng đã được hoàn thành, đưa vào sử dụng.

Hoàng Diên

nguồn: baodientu.chinhphu.vn

CHÍNH SÁCH MỚI CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 5/2014

(Chinhphu.vn) – Tăng mức tín dụng cho công trình nước sạch nông thôn; từ 1/5, hộ nghèo được vay tối đa 50 triệu đồng; phải trả tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người giúp việc; quy định mới trong thi tốt nghiệp Trung học phổ thông;… là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 5/2014.

 

Ảnh minh họa

Tăng mức tín dụng cho công trình nước sạch nông thôn

Theo Quyết định số 18/2014/QĐ-TTg sửa đổi, bổ sung Điều 3 của Quyết định số 62/2004/QĐ-TTg ngày 16/4/2004 về tín dụng thực hiện Chiến lược quốc gia về cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, các hộ gia đình ở nông thôn có nhu cầu xây dựng mới, cải tạo, nâng cấp các công trình nước sạch và vệ sinh môi trường có thể vay tới 6 triệu đồng/hộ, cho mỗi loại công trình tại Ngân hàng Chính sách xã hội.

Quyết định có hiệu lực từ ngày 1/5/2014.

Phải trả tiền bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người giúp việc

Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về lao động là người giúp việc gia đình có hiệu lực thi hành từ ngày 25/5/2014, trong đó quy định về BHXH, BHYT đối với người giúp việc gia đình. Cụ thể, người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả thêm cùng lúc với kỳ trả lương của người lao động một khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế thuộc trách nhiệm của người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế để người lao động tự lo bảo hiểm.

Trường hợp người lao động sống cùng gia đình người sử dụng lao động bị ốm, bị bệnh, người sử dụng lao động tạo điều kiện để người lao động nghỉ ngơi, khám, chữa bệnh. Chi phí khám, chữa bệnh do người lao động chi trả, trừ trường hợp hai bên có thoả thuận khác.

Người sử dụng lao động không phải trả lương cho những ngày người lao động phải nghỉ việc do bị ốm, bị bệnh.

Quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh

Theo Nghị định 24/2014/NĐ-CP quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (Sở) có hiệu lực từ ngày 20/5/2014,  Sở là cơ quan thuộc UBND cấp tỉnh; thực hiện chức năng tham mưu, giúp UBND cấp tỉnh quản lý Nhà nước về ngành, lĩnh vực ở địa phương theo quy định của pháp luật và theo phân công hoặc ủy quyền của UBND cấp tỉnh, Chủ tịch UBND cấp tỉnh.

Cơ cấu tổ chức của Sở thuộc UBND cấp tỉnh gồm có: Văn phòng; thanh tra; phòng chuyên môn, nghiệp vụ; chi cục; đơn vị sự nghiệp công lập. Các Sở không nhất thiết phải có cơ quan thanh tra, chi cục, đơn vị sự nghiệp công lập. Riêng Văn phòng UBND cấp tỉnh có Cổng Thông tin điện tử.

Nghị định quy định 17 sở được tổ chức thống nhất ở các địa phương. Bên cạnh đó còn có các sở đặc thù được tổ chức ở một số địa phương như Sở Ngoại vụ, Ban Dân tộc, Sở Quy hoạch Kiến trúc.

Ngoài 3 sở đặc thù trên, Nghị định 24/2014/NĐ-CP cũng bổ sung quy định: Cơ quan chuyên môn đặc thù khác chỉ được tổ chức khi thật cần thiết, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế-xã hội và đáp ứng yêu cầu quản lý Nhà nước ở địa phương.

Tạo điều kiện thuận lợi cho phổ cấp giáo dục, xóa mù chữ

Theo Nghị định 20/2014/NĐ-CP về phổ cập giáo dục, xóa mù chữ có hiệu lực từ ngày 15/5/2014, Nhà nước ưu tiên đầu tư, tạo điều kiện cho các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân thực hiện nhiệm vụ phổ cập giáo dục, xóa mù chữ.

Nhà nước cũng khuyến khích và tạo điều kiện cho các tổ chức quốc tế, người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia vào việc thực hiện phổ cập giáo dục, xóa mù chữ ở Việt Nam theo quy định của pháp luật.

Đồng thời, Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ cho các đối tượng được miễn, giảm học phí và hỗ trợ chi phí học tập khi tham gia các chương trình phổ cập giáo dục, xóa mù chữ theo quy định.

3 trường hợp bị đình chỉ, chấm dứt hoạt động xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử

Theo Nghị định quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật xuất bản, trong đó quy định điều kiện hoạt động xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử, Bộ Thông tin và Truyền thông yêu cầu nhà xuất bản, tổ chức, cá nhân đình chỉ việc xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử để chấn chỉnh hoặc khắc phục nguyên nhân trong 3 trường hợp.

Thứ nhất, không duy trì đủ các điều kiện hoạt động xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử trong quá trình hoạt động.

Thứ hai, không thực hiện đúng quy định về trách nhiệm của nhà xuất bản và cơ quan, tổ chức, cá nhân tham gia xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử.

Thứ ba, không chấp hành các biện pháp quản lý của cơ quan quản lý nhà nước về hoạt động xuất bản.

Trường hợp nhà xuất bản, tổ chức, cá nhân phát hành xuất bản phẩm điện tử không chấn chỉnh hoặc không khắc phục đối với trường hợp quy định nêu trên thì phải chấm dứt hoạt động theo quyết định của Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông.

Nghị định có hiệu lực từ ngày 20/5/2014.

Tăng cường phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao

Theo Nghị định quy định về phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao có hiệu lực từ ngày 22/5/2014, để phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao, công tác thông tin, tuyên truyền, giáo dục cần được đẩy mạnh; trong đó tăng cường đối với các doanh nghiệp cung cấp hạ tầng mạng và dịch vụ Internet, viễn thông; các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng, thanh toán điện tử và thương mại điện tử…

Bên cạnh đó, cơ quan thực hiện chức năng quản lý hành chính về an ninh, trật tự thông qua hoạt động của mình có trách nhiệm chủ động phát hiện kịp thời nguyên nhân, điều kiện, phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm và vi phạm pháp luật khác có sử dụng công nghệ cao và có biện pháp xử lý phù hợp…

Áp dụng Hệ thống quản lý chất  lượng vào cơ quan hành chính nhà nước

Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về việc áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng theo Tiêu chuẩn quốc gia TCVN ISO 9001:2008 vào hoạt động của các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống hành chính nhà nước có hiệu lực từ ngày 18/5/2014.

Theo đó, các cơ quan phải xây dựng và áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng gồm: Bộ, cơ quan ngang Bộ, Bảo hiểm Xã hội Việt Nam (Bộ, ngành); UBND tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, UBND huyện, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp huyện.

Khuyến khích các cơ quan, đơn vị sau xây dựng và áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng: Cơ quan đại diện ngoại giao và cơ quan đại diện lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài; Ngân hàng Chính sách Xã hội, Ngân hàng Phát triển Việt Nam; UBND xã, phường, thị trấn; đơn vị sự nghiệp công lập.

Quyết định nêu rõ, phải xây dựng và áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng đối với các hoạt động liên quan đến thực hiện thủ tục hành chính cho tổ chức, cá nhân.

Bên cạnh đó, bảo đảm sự tham gia của Lãnh đạo, các đơn vị và cá nhân có liên quan trong quá trình xây dựng và áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng; thực hiện đúng các quy định của pháp luật về bảo vệ bí mật Nhà nước trong quá trình xây dựng và áp dụng Hệ thống quản lý chất lượng.

Quy định mới trong thi tốt nghiệp Trung học phổ thông

Theo Thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế thi tốt nghiệp Trung học phổ thông, môn thi tốt nghiệp trung học phổ thông gồm 4 môn; trong đó có 2 môn bắt buộc là Toán và Ngữ văn; 2 môn do thí sinh tự chọn trong số các môn: Vật lí, Hóa học, Sinh học, Lịch sử, Địa lí, Ngoại ngữ.

Thời gian làm bài đối với mỗi môn thi Toán và Ngữ văn là 120 phút; Lịch sử và Địa lí là 90 phút; Vật lí, Hóa học, Sinh học và Ngoại ngữ là 60 phút.

Về cách tính điểm xét tốt nghiệp (ĐXTN) và điểm xếp loại tốt nghiệp (ĐXL), thay vì chỉ căn cứ vào điểm các bài thi thì theo Thông tư mới, sẽ kết hợp kết quả thi và điểm trung bình cả năm lớp 12 để tính điểm xét tốt nghiệp, điểm xếp loại tốt nghiệp.

Cụ thể, điểm xét tốt nghiệp được tính là: Tổng điểm 4 bài thi cộng tổng điểm khuyến khích (nếu có) chia cho 4, sau đó cộng điểm trung bình cả năm lớp 12 và chia 2.

Điểm xếp loại tốt nghiệp được tính là: Điểm trung bình 4 bài thi cộng điểm trung bình cả năm lớp 12 và chia 2.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 8/5/2014.

Từ 1/5, hộ nghèo được vay tối đa 50 triệu đồng

Theo Quyết định số 34/QĐ-HĐQT của Ngân hàng Chính sách xã hội, nâng mức cho vay tối đa đối với hộ nghèo đáp ứng nhu cầu vay vốn phục vụ sản xuất, kinh doanh, nhằm góp phần thực hiện chính sách an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững lên 50 triệu đồng/hộ vay.

Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/5/2014.

Quy định mức phí thẩm định an toàn đối với cây biến đổi gen

Theo Thông tư 36/2014/TT-BTC quy định mức thu và sử dụng phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học đối với cây trồng biến đổi gen, mức thu phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học đối với cây trồng biến đổi gen là 70.000.000 đồng/1 lần thẩm định.

Thời hạn nộp phí thẩm định hồ sơ cấp Giấy chứng nhận an toàn sinh học chậm nhất sau 5 ngày kể từ khi nhận được thông báo bằng văn bản của cơ quan tiếp nhận hồ sơ chấp nhận hồ sơ đăng ký là hợp lệ.

Thông tư có hiệu lực thi hành từ ngày 15/5/2014.

Hoàng Diên

Nguồn:baodientu.chinhphu.vn

CHÍNH SÁCH MỚI CÓ HIỆU LỰC TỪ THÁNG 7/2014

(Chinhphu.vn) – 5 Luật có hiệu lực từ 1/7/2014; 7 trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; 5 trường hợp được miễn tiền sử dụng đất; tạo thuận lợi cho các nhà khoa học và công nghệ phát huy tài năng… là những chính sách mới có hiệu lực từ tháng 7/2014.

 

Ảnh minh họa

Luật Đất đai

Luật Đất đai gồm 14 chương và 212 điều. So với Luật Đất đai 2003, Luật Đất đai (sửa đổi) quy định đầy đủ, rõ ràng các đối tượng được Nhà nước giao đất, cho thuê đất và điều kiện để triển khai thực hiện các dự án đầu tư để Nhà nước giao đất, cho thuê đất.

Bên cạnh đó, Luật xác định rõ và quy định cụ thể những trường hợp mà Nhà nước phải thu hồi đất. Quy định mới này nhằm khắc phục, loại bỏ những trường hợp thu hồi đất làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích của người sử dụng đất, đồng thời khắc phục một cách có hiệu quả những trường hợp thu hồi đất mà không đưa vào sử dụng, gây lãng phí, tạo nên các dư luận xấu trong xã hội.

Bên cạnh đó, Luật cũng quy định cụ thể và đầy đủ từ việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ tái định cư đảm bảo một cách công khai, minh bạch và quyền lợi của người có đất thu hồi; đồng thời khắc phục và điều tiết một cách hài hòa lợi ích giữa Nhà nước là chủ sở hữu về đất đai, người sử dụng đất và nhà đầu tư.

Ngoài ra, Luật mở rộng thời hạn giao đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân sản suất nông nghiệp; mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất của hộ gia đình, cá nhân đáp ứng yêu cầu tích tụ đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp theo hướng hiện đại phù hợp với đường lối phát triển nông nghiệp, nông thôn đã được nêu trong Nghị quyết 26 của BCH Trung ương Đảng;…

Phân cấp triệt để trong đấu thầu

Luật Đấu thầu gồm 13 chương, 96 điều. Luật Đấu thầu đã chú trọng ưu tiên phát triển nguồn nhân lực, tạo cơ hội cho nhà thầu trong nước trúng thầu và tạo công ăn việc làm cho lao động trong nước, ưu đãi đối với nhà thầu và hàng hóa sản xuất trong nước.

Đồng thời, Luật quy định hình thức đấu thầu mua sắm tập trung, để áp dụng rộng rãi trong công tác đấu thầu. Theo hình thức này, thay vì tổ chức mua sắm ở hàng trăm cơ quan khác nhau thì cơ quan mua sắm tập trung sẽ chịu trách nhiệm tổ chức mua sắm chuyên nghiệp một lần.

Luật Đấu thầu năm 2013 đã sửa đổi một số quy định hiện hành về ký kết, thực hiện và quản lý hợp đồng nhằm tăng cường trách nhiệm của nhà thầu và chủ đầu tư trong quá trình thực hiện hợp đồng, tránh tình trạng áp dụng loại hợp đồng không phù hợp với tính chất của gói thầu, điều chỉnh giá hợp đồng, điều chỉnh hình thức hợp đồng, điều chỉnh thời gian thực hiện hợp đồng một cách tùy tiện, gây lãng phí…

Đặc biệt Luật đã thực hiện phân cấp triệt để trong đấu thầu. Đồng thời quy định chặt chẽ về trách nhiệm giải trình của người có thẩm quyền, chủ đầu tư trong quá trình tổ chức lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, tránh tình trạng khép kín trong đấu thầu.

Ngăn chặn lãng phí

Luật Thực hành tiết kiệm chống lãng phí (sửa đổi) gồm 5 chương, 80 điều. Một trong những điểm mới so với Luật thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2005 là Luật hóa cơ chế về phát hiện lãng phí và trách nhiệm xử lý thông tin phát hiện lãng phí.

Đây là một điểm mới hết sức quan trọng của Luật, tạo cơ chế khuyến khích các tổ chức, cá nhân tham gia phát hiện và cung cấp kịp thời các thông tin về lãng phí, góp phần ngăn chặn lãng phí cũng như xác định trách nhiệm kiểm tra, xử lý, giải trình của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong việc để xảy ra lãng phí.

Để bảo vệ người cung cấp thông tin, Luật quy định nghiêm cấm mọi hành vi cản trở việc thực hiện quyền cung cấp thông tin phát hiện lãng phí; đe dọa, trả thù, trù dập, xúc phạm người cung cấp thông tin phát hiện lãng phí.

Luật cũng xác định rõ các hành vi lãng phí trong từng lĩnh vực thực hành tiết kiệm chống lãng phí, làm cơ sở để xử lý nghiêm các hành vi gây lãng phí, góp phần đưa công tác chống lãng phí đi vào thực chất, tăng tính hiệu lực, hiệu quả của Luật.

Tạo thuận lợi cho công dân thực hiện khiếu nại, tố cáo

Với 9 Chương 36 Điều, Luật Tiếp công dân quy định đầy đủ những nguyên tắc tiếp công dân gồm công khai, dân chủ, kịp thời, giữ bí mật và bảo đảm an toàn cho người tố cáo, tôn trọng, tạo điều kiện thuận lợi cho công dân thực hiện khiếu nại, tố cáo, phản ánh theo quy định của pháp luật.

Luật nghiêm cấm những hành vi gây phiền hà, sách nhiễu, cản trở người khiếu nại, tố cáo, phản ánh hoặc thiếu trách nhiệm, phân biệt đối xử trong việc tiếp công dân.

Đồng thời, cũng nghiêm cấm việc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để gây rối trật tự, xuyên tạc, vu khống, gây thiệt hại cho cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân, kích động, lôi kéo người khác tập trung đông người tại nơi tiếp công dân.

Tăng cường quản lý nhà nước về PCCC

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Phòng cháy và chữa cháy quy định cụ thể, rõ ràng trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, chủ hộ gia đình, cá nhân trong việc chỉ đạo, tuyên truyền, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về phòng cháy và chữa cháy.

Luật bổ sung các quy định mới về kinh doanh dịch vụ phòng cháy và chữa cháy; phòng cháy đối với cơ sở hạt nhân; phòng, chống cháy, nổ đối với cơ sở sản xuất, kho vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ; xử lý các cơ sở không đảm bảo yêu cầu về phòng cháy và chữa cháy.

Luật nghiêm cấm các hành vi mang hàng và chất dễ cháy, nổ trái phép vào nơi tập trung đông người và không báo cháy khi có điều kiện báo cháy, trì hoãn việc báo cháy.

7 trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

Theo Nghị định quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đất đai có hiệu lực từ 1/7/2014, có 7 trường hợp không cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất gồm:

1- Tổ chức, cộng đồng dân cư được Nhà nước giao đất để quản lý thuộc các trường hợp quy định tại Điều 8 của Luật Đất đai.

2- Người đang quản lý, sử dụng đất nông nghiệp thuộc quỹ đất công ích của xã, phường, thị trấn.

3- Người thuê, thuê lại đất của người sử dụng đất, trừ trường hợp thuê, thuê lại đất của nhà đầu tư xây dựng, kinh doanh kết cấu hạ tầng trong khu công nghiệp, cụm công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, khu kinh tế.

4- Người nhận khoán đất trong các nông trường, lâm trường, doanh nghiệp nông, lâm nghiệp, ban quản lý rừng phòng hộ, ban quản lý rừng đặc dụng.

5- Người đang sử dụng đất không đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.

6- Người sử dụng đất có đủ điều kiện cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất nhưng đã có thông báo hoặc quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

7- Tổ chức, Ủy ban nhân dân cấp xã được Nhà nước giao đất không thu tiền sử dụng đất để sử dụng vào mục đích xây dựng công trình công cộng gồm đường giao thông, công trình dẫn nước, dẫn xăng, dầu, khí; đường dây truyền tải điện, truyền dẫn thông tin; khu vui chơi giải trí ngoài trời; nghĩa trang, nghĩa địa không nhằm mục đích kinh doanh.

5 trường hợp được miễn tiền sử dụng đất

Theo Nghị định quy định về thu tiền sử dụng đất, có 5 trường hợp được miễn tiền sử dụng đất gồm:

1- Miễn tiền sử dụng đất trong hạn mức giao đất ở khi sử dụng đất để thực hiện chính sách nhà ở, đất ở đối với người có công với cách mạng thuộc đối tượng được miễn tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về người có công; hộ nghèo, hộ đồng bào dân tộc thiểu số ở vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, vùng biên giới, hải đảo; sử dụng đất để xây dựng nhà ở xã hội theo quy định của pháp luật về nhà ở; nhà ở cho người phải di dời do thiên tai.

2- Miễn tiền sử dụng đất trong hạn mức giao đất ở khi cấp Giấy chứng nhận lần đầu đối với đất do chuyển mục đích sử dụng từ đất không phải là đất ở sang đất ở do tách hộ đối với hộ đồng bào dân tộc thiểu số, hộ nghèo tại các xã đặc biệt khó khăn vùng đồng bào dân tộc và miền núi theo Danh mục các xã đặc biệt khó khăn do Thủ tướng Chính phủ quy định.

3- Miễn tiền sử dụng đất đối với diện tích đất được giao trong hạn mức giao đất ở cho các hộ dân làng chài, dân sống trên sông nước, đầm phá di chuyển đến định cư tại các khu, điểm tái định cư theo quy hoạch, kế hoạch và dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

4- Miễn tiền sử dụng đất đối với phần diện tích đất được giao trong hạn mức giao đất ở để bố trí tái định cư hoặc giao cho các hộ gia đình, cá nhân trong các cụm, tuyến dân cư vùng ngập lũ theo dự án được cấp có thẩm quyền phê duyệt.

5- Thủ tướng Chính phủ quyết định việc miễn tiền sử dụng đất đối với các trường hợp khác do Bộ trưởng Bộ Tài chính trình trên cơ sở đề xuất của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014.

5 phương pháp định giá đất

Theo Nghị định 44/2014/NĐ-CP quy định về giá đất có hiệu lực từ 1/7/2014, có 5 phương pháp định giá đất gồm: So sánh trực tiếp; chiết trừ; thu nhập; thặng dư; hệ số điều chỉnh giá đất.

Nghị định quy định rõ điều kiện áp dụng đối với từng phương pháp định giá đất. Trong đó, phương pháp so sánh trực tiếp được áp dụng để định giá đất khi trên thị trường có các thửa đất so sánh đã chuyển nhượng trên thị trường, trúng đấu giá quyền sử dụng đất.

Phương pháp chiết trừ được áp dụng để định giá đối với thửa đất có tài sản gắn liền với đất trong trường hợp có đủ số liệu về giá các bất động sản (gồm đất và tài sản gắn liền với đất) tương tự với thửa đất cần định giá đã chuyển nhượng trên thị trường, trúng đấu giá quyền sử dụng đất.

Còn phương pháp thu nhập được áp dụng để định giá đối với thửa đất xác định được các khoản thu nhập, chi phí từ việc sử dụng đất.

Đối với thửa đất có tiềm năng phát triển do thay đổi quy hoạch hoặc chuyển mục đích sử dụng đất khi xác định được tổng doanh thu phát triển giả định và tổng chi phí ước tính thì được áp dụng phương pháp thặng dư để định giá.

Kinh doanh dịch vụ lai dắt phải có tối thiểu 2 tàu lai dắt chuyên dụng

Theo Nghị định 30/2014/NĐ-CP về điều kiện kinh doanh vận tải biển và dịch vụ hỗ trợ vận tải biển có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2014, về điều kiện kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển, tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển tại Việt Nam phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật; có đăng ký kinh doanh ngành nghề dịch vụ lai dắt tàu biển.

Doanh nghiệp phải có cán bộ chuyên trách thực hiện khai thác dịch vụ lai dắt tàu biển và pháp chế doanh nghiệp.

Đồng thời, người được bổ nhiệm giữ vị trí phụ trách lĩnh vực lai dắt tàu biển phải có kinh nghiệm trong hoạt động lai dắt tàu biển tối thiểu là 2 năm.

Người phụ trách pháp chế doanh nghiệp phải có bằng đại học chuyên ngành luật hoặc tương đương và phải có kinh nghiệm làm việc trong lĩnh vực pháp luật tối thiểu 2 năm.

Đặc biệt, tổ chức, cá nhân kinh doanh dịch vụ lai dắt tàu biển tại Việt Nam phải có tối thiểu 2 tàu lai dắt chuyên dụng.

Tạo thuận lợi cho các nhà khoa học phát huy tài năng

Xét đặc cách tuyển dụng, bổ nhiệm chức danh khoa học, công nghệ; nâng lương vượt bậc cho các cá nhân có thành tích trong hoạt động khoa học và công nghệ (KHCN); đảm bảo các điều kiện thuận lợi về phương tiện, trang thiết bị, phòng thí nghiệm; hỗ trợ chi phí công bố và đăng ký kết quả nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài…

Đó là một số ưu đãi được quy định tại Nghị định số 40/2014/NĐ-CP quy định việc sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động KHCN.

Nghị định nhấn mạnh sẽ tạo điều kiện, môi trường làm việc thuận lợi cho cá nhân hoạt động KHCN phát huy tối đa năng lực và được hưởng lợi ích xứng đáng với kết quả hoạt động KHCN…

Lấy ý kiến người lao động trong xây dựng chính sách, pháp luật

Theo Nghị định quy định việc cơ quan quản lý nhà nước lấy ý kiến tổ chức đại diện người lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động trong việc xây dựng chính sách, pháp luật về lao động và những vấn đề về quan hệ lao động, việc lấy ý kiến tổ chức đại diện người lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động trong việc xây dựng chính sách, pháp luật về lao động và những vấn đề về quan hệ lao động phải tuân thủ pháp luật, tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động.

3 nội dung lấy ý kiến gồm: 1- Chính sách, pháp luật về lao động liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động trong quan hệ lao động; 2- Các biện pháp phòng ngừa và giải quyết tranh chấp lao động; 3- Báo cáo thực hiện các Công ước của Tổ chức Lao động quốc tế đã được nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam phê chuẩn.

Cũng theo Nghị định, việc lấy ý kiến được thực hiện thông qua 3 hình thức: 1- Lấy ý kiến bằng văn bản; 2- Lấy ý kiến thông qua ban soạn thảo, tổ biên tập, ban chỉ đạo, ban nghiên cứu mà đại diện tổ chức đại diện người lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động tham gia; 3- Lấy ý kiến thông qua các cuộc họp, hội thảo, diễn đàn, hội nghị tham vấn mà đại diện tổ chức đại diện người lao động, tổ chức đại diện người sử dụng lao động tham dự.

Quản lý hoạt động bán hàng đa cấp

Nghị định số 42/2014/NĐ-CP về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp với nhiều quy định mới nhằm nâng cao hiệu quả quản lý giám sát của cơ quan quản lý nhà nước đối với hoạt động của doanh nghiệp bán hàng đa cấp, đồng thời bảo vệ người tham gia bán hàng đa cấp trước các hành vi lừa đảo, trục lợi. Nghị định này thay thế Nghị định 110/2005/NĐ-CP.

Nghị định 42/2014/NĐ-CP nêu rõ, hàng hóa kinh doanh theo phương thức đa cấp phải đáp ứng các quy định của pháp luật có liên quan.

Những hàng hóa không được kinh doanh theo phương thức đa cấp gồm: Hàng hóa thuộc Danh mục hàng hóa cấm kinh doanh, Danh mục hàng hóa hạn chế kinh doanh, hàng hóa đang bị áp dụng biện pháp khẩn cấp buộc phải thu hồi, cấm lưu thông hoặc tạm ngừng lưu thông theo quy định của pháp luật.

Hàng hóa là thuốc; trang thiết bị y tế; các loại thuốc thú y (bao gồm cả thuốc thú y thủy sản), thuốc bảo vệ thực vật; hóa chất, chế phẩm diệt côn trùng, diệt khuẩn dùng trong lĩnh vực gia dụng và y tế; các loại hoá chất nguy hiểm và sản phẩm có hoá chất nguy hiểm theo quy định của pháp luật cũng không được kinh doanh theo phương thức đa cấp.

Ngoài ra, mọi loại hình dịch vụ hoặc các loại hình kinh doanh khác không phải là mua bán hàng hóa, không được tiến hành kinh doanh theo phương thức đa cấp, trừ trường hợp pháp luật cho phép.

Giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với DNNN

Theo Nghị định 49/2014/NĐ-CP, thực hiện giám sát, kiểm tra, thanh tra đối với doanh nghiệp nhà nước trong việc chấp hành pháp luật trên 6 lĩnh vực:

1- Quản lý và sử dụng vốn, tài sản nhà nước; chế độ tài chính và giám sát tài chính đối với các doanh nghiệp theo quy định của Nghị định số 61/2013/NĐ-CP ngày 25/6/2013 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành.

2- Sắp xếp, đổi mới, kiện toàn tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp; xây dựng và thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về đầu tư phát triển, kế hoạch sản xuất kinh doanh đối với doanh nghiệp.

3- Tuyển dụng, quản lý, sử dụng lao động; đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, chính sách tiền lương, tiền thưởng và các chế độ, chính sách khác đối với người quản lý doanh nghiệp, người đại diện và người lao động làm việc tại doanh nghiệp.

4- Quy định của pháp luật chuyên ngành về lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh; quy định, quy trình về chuyên môn – kỹ thuật, quy tắc quản lý thuộc lĩnh vực, ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp.

5- Các quy định của pháp luật về việc giám sát, kiểm tra, thanh tra, đánh giá hiệu quả hoạt động và thực hiện chế độ thông tin, báo cáo, công khai, minh bạch trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.

6- Các quy định của pháp luật khác theo yêu cầu của chủ sở hữu hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

DN hoạt động dịch vụ việc làm phải ký quỹ

Theo Nghị định quy định điều kiện, thủ tục cấp giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm của doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm có hiệu lực từ ngày 15/7/2014, hoạt động dịch vụ việc làm của doanh nghiệp bao gồm: tư vấn cho người lao động và người sử dụng lao động; giới thiệu việc làm cho người lao động, cung ứng và tuyển lao động theo yêu cầu của người sử dụng lao động; thu thập, phân tích, dự báo và cung ứng thông tin thị trường lao động; tổ chức đào tạo, tập huấn nâng cao năng lực tìm kiếm việc làm và đào tạo kỹ năng, dạy nghề theo quy định của pháp luật; thực hiện các chương trình, dự án về việc làm.

Doanh nghiệp được thành lập theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp và có đủ các điều kiện sau thì được cấp giấy phép hoạt động dịch vụ việc làm: Địa điểm đặt trụ sở, chi nhánh của doanh nghiệp phải ổn định và có thời hạn từ 3 năm trở lên; có bộ máy chuyên trách để thực hiện các hoạt động dịch vụ việc làm bao gồm ít nhất 3 nhân viên có trình độ cao đẳng trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, lý lịch rõ ràng; doanh nghiệp phải nộp tiền ký quỹ 300 triệu đồng tại ngân hàng thương mại nơi doanh nghiệp mở tài khoản giao dịch chính…

Tiêu chí hộ gia đình nông lâm ngư nghiệp có mức sống trung bình

Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về tiêu chí hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình giai đoạn 2014-2015, hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm nghiệp có mức sống trung bình là hộ có thu nhập bình quân đầu người trên chuẩn cận nghèo hiện hành đến dưới 900.000 đồng/người/tháng.

Theo Quyết định 09/2011/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011 – 2015 thì hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ có mức thu nhập bình quân từ 401.000 – 520.000 đồng/người/tháng.

Như vậy, giai đoạn 2014-2015, hộ có thu nhập bình quân đầu người từ trên 520.000 đồng/người/tháng đến dưới 900.000 đồng/người/tháng là hộ có mức sống trung bình.

Tiêu chí này là căn cứ để xác định đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế theo pháp luật bảo hiểm y tế.

Quyết định nêu rõ, những đối tượng được công nhận có mức sống trung bình trên cơ sở kết quả rà soát, thẩm định của các địa phương từ năm 2014 sẽ được nhà nước hỗ trợ đóng bảo hiểm y tế theo pháp luật bảo hiểm y tế.

Quyết định này có hiệu lực từ ngày 15/7/2014.

Hỗ trợ sinh hoạt phí đối với Ủy viên Ủy ban MTTQ các cấp

Theo Quyết định quy định chế độ sinh hoạt phí đối với Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh và cấp huyện các mức hỗ trợ như sau:

Ủy viên Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được hỗ trợ sinh hoạt phí mức 460.000 đồng/người/tháng; Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp tỉnh được hỗ trợ 230.000 đồng/người/tháng; Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc cấp huyện được hỗ trợ 120.000 đồng/người/tháng.

Trường hợp một người tham gia Ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc ở nhiều cấp thì hưởng mức hỗ trợ sinh hoạt phí ở cấp cao nhất.

Quyết định có hiệu lực thi hành từ ngày 15/7/2014.

Tiêu chuẩn xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em

Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ quy định về Tiêu chuẩn xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em có hiệu lực từ ngày 15/7/2014, Tiêu chuẩn xã, phường, thị trấn phù hợp với trẻ em chỉ gồm 15 tiêu chí với tổng số điểm tối đa là 1000 điểm.

Trong đó, 75 điểm là điểm số tối đa dành cho xã, phường, thị trấn có tỷ lệ trẻ em lao động trong điều kiện nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, lang thang kiếm sống, làm việc xa gia đình chiếm dưới 2%; không có trẻ em bị xâm hại, bạo lực, mua bán, bắt cóc; tỷ lệ trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt được trợ giúp, chăm sóc đạt từ 98% trở lên; tỷ lệ trẻ em đến trường, lớp mầm non đạt từ 90% trở lên…

50 điểm là điểm số tối đa dành cho xã, phường, thị trấn có tỷ lệ trẻ em được khai sinh đúng quy định đạt từ 98% trở lên; tỷ lệ trẻ  em được khám sức khỏe tổng quát ít nhất 1 lần trong năm đạt từ 80% trở lên; tỷ lệ trẻ em  tốt nghiệp trung học cơ sở hoặc tương đương đạt từ 98% trở lên…

Quy định về thanh toán tiền nghỉ phép năm

Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 57/2014 /TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 141/2011/TT-BTC quy định về chế độ thanh toán tiền nghỉ phép hàng năm đối với cán bộ, công chức, viên chức, lao động hợp đồng làm việc trong các cơ quan nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập.

Thông tư 57 có hiệu lực từ ngày 1/7/2014. Theo văn bản này, đối tượng được thanh toán tiền phương tiện đi lại; tiền phụ cấp đi đường khi nghỉ phép hàng năm được mở rộng hơn, gồm: Cán bộ, công chức là người miền xuôi công tác ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo có hệ số phụ cấp khu vực từ mức 0,5 trở lên và người ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo có hệ số phụ cấp khu vực từ mức 0,5 trở lên làm việc ở miền xuôi có đủ điều kiện được nghỉ phép hàng năm theo Bộ luật Lao động quy định, được thủ trưởng cơ quan, đơn vị đồng ý cấp giấy cho đi nghỉ phép năm về thăm gia đình, cha mẹ, vợ hoặc chồng, con hoặc thăm quê quán.

Về điều kiện, thời hạn; thủ tục thanh toán, theo quy định hiện hành thì nghỉ phép của năm nào chỉ được thanh toán trong năm đó, trường hợp vì công việc được Thủ trưởng cơ quan, đơn vị cho lùi thời gian nghỉ phép sang năm sau thì cũng được thanh toán tiền nghỉ phép năm, nhưng chỉ được thanh toán trong phạm vi thời gian chỉnh lý ngân sách đến hết 31/1 năm sau.

Đối với cán bộ, công chức đang công tác tại vùng sâu, vùng xa, núi cao, hải đảo có hệ số phụ cấp khu vực từ mức 0,5 trở lên nếu có yêu cầu, được gộp số ngày nghỉ của hai năm để nghỉ một lần; nếu nghỉ gộp ba năm một lần thì phải được người sử dụng lao động đồng ý và được thanh toán tiền nghỉ phép năm theo quy định.

Thông tư nêu rõ, cán bộ, công chức có thể thỏa thuận với thủ trưởng cơ quan, đơn vị để nghỉ gộp tối đa ba năm một lần và chỉ được thanh toán một lần tiền nghỉ phép năm theo quy định.

Hoàng Diên

Nguồn:baodientu.chinhphu.vn

NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI QUAN TRỌNG TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014

(PLO)- Luật hôn nhân gia đình 2014 đã chính thức được thông qua và sẽ có hiệu lực kể từ 1-1-2015. Luật HNGĐ 2014 có những điểm mới đáng chú ý sau:

Không cấm kết hôn đồng giới

Về hôn nhân đồng giới, luật HNGĐ 2000 quy định cấm kết hôn đồng giới, và vì cấm nên đi kèm sẽ có chế tài, xử phạt.

Nay, theo luật mới, từ 1-1-2015, Luật HNGĐ 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” nhưng quy định cụ thể “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính-Khoản 2 Điều 8”. Như vậy những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Đây cũng được coi là một bước tiến nhỏ trong việc nhìn nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta trong tình hình xã hội hiện nay.

Nâng độ tuổi kết hôn

Nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi thay vì vừa bước qua tuổi 18 như quy định tại Luật HNGĐ 2000.

Luật mới quy định tuổi kết hôn đối với nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên đối nữ và với nam là từ đủ 20 tuổi trở lên. Sở dĩ có việc thay đổi này là vì nếu quy định tuổi kết hôn của nữ là vừa bước qua tuổi 18 thì quy định này là không thống nhất với Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Đó là, theo Bộ luật Dân sự người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý…

Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là không hợp lý, thiếu đồng bộ và làm hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập các giao dịch như quyền yêu cầu ly hôn thì phải có người đại diện.

Chính chức cho phép mang thai hộ

Luật HNGĐ mới chính thức cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Việc mang thai hộ chỉ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện về cả người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ. Tuy nhiên Luật lại chỉ cho phép người thân thích cùng hàng bên vợ hoặc bên chồng mới được mang thai hộ. Quy định như trên vô hình chung sẽ làm hạn chế rất nhiều trường hợp không tìm được người mang thai hộ. Và nếu may mắn tìm được thì có thể người họ hàng đó không có đủ điều kiện giúp mang thai như quy định của Luật khi trong tình hình xã hội hiện nay “bà con họ hàng” cũng… không có nhiều như ngày trước.

Tài sản của vợ chồng khi kết hôn

Quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng. Luật hiện hành chủ yếu đề cập đến vấn đề đất đai, còn các tài sản khác như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được đề cập tới, gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Nay, Luật HNGĐ 2014 quy định cụ thể: việc thỏa thuận phải được lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn. Thỏa thuận này vẫn có thể được thay đổi sau khi kết hôn. Quy định này sẽ làm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay.

Thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn

Luật Hôn nhân và gia đình mới cũng bổ sung thêm các đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn.

Theo đó, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì từ ngày 1-1-2015, cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Chồng không có quyền ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng.

Áp dụng tập quán trong HNGĐ

Luật HNGĐ 2014 quy định cụ thể việc áp dụng tập quán trong hôn nhân gia đình so với Luật năm 2000, đó là: chỉ được áp dụng tập quán trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận nhưng không được trái với các nguyên tắc, vi phạm các điều cấm tại Luật này. Quy định hiện hành chỉ quy định “Vận động nhân dân xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ”. Việc quy định chung chung tạo nhiều kẽ hở, bất cập, gây khó khăn cho tòa án khi xét xử các vụ án về hôn nhân gia đình mà phải áp dụng các phong tục tập quán.

ĐL

Nguồn: Báo Pháp Luật Tp.HCM

NHỮNG QUY ĐỊNH MỚI QUAN TRỌNG TRONG LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH 2014

(PLO)- Luật hôn nhân gia đình 2014 đã chính thức được thông qua và sẽ có hiệu lực kể từ 1-1-2015. Luật HNGĐ 2014 có những điểm mới đáng chú ý sau:

Không cấm kết hôn đồng giới

Về hôn nhân đồng giới, luật HNGĐ 2000 quy định cấm kết hôn đồng giới, và vì cấm nên đi kèm sẽ có chế tài, xử phạt.

Nay, theo luật mới, từ 1-1-2015, Luật HNGĐ 2014 bỏ quy định “cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính” nhưng quy định cụ thể “không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính-Khoản 2 Điều 8”. Như vậy những người đồng giới tính vẫn có thể kết hôn tuy nhiên sẽ không được pháp luật bảo vệ khi có tranh chấp xảy ra. Đây cũng được coi là một bước tiến nhỏ trong việc nhìn nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính của nhà nước ta trong tình hình xã hội hiện nay.

Nâng độ tuổi kết hôn

Nâng độ tuổi kết hôn của nữ thành đủ 18 tuổi thay vì vừa bước qua tuổi 18 như quy định tại Luật HNGĐ 2000.

Luật mới quy định tuổi kết hôn đối với nữ là từ đủ 18 tuổi trở lên đối nữ và với nam là từ đủ 20 tuổi trở lên. Sở dĩ có việc thay đổi này là vì nếu quy định tuổi kết hôn của nữ là vừa bước qua tuổi 18 thì quy định này là không thống nhất với Bộ luật Dân sự và Bộ luật Tố tụng dân sự. Đó là, theo Bộ luật Dân sự người chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý…

Còn theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì đương sự là người từ đủ 18 tuổi trở lên mới có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự. Như vậy, nếu cho phép người chưa đủ 18 tuổi kết hôn là không hợp lý, thiếu đồng bộ và làm hạn chế một số quyền của người nữ khi xác lập các giao dịch như quyền yêu cầu ly hôn thì phải có người đại diện.

Chính chức cho phép mang thai hộ

Luật HNGĐ mới chính thức cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Việc mang thai hộ chỉ được áp dụng khi có đầy đủ các điều kiện về cả người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ. Tuy nhiên Luật lại chỉ cho phép người thân thích cùng hàng bên vợ hoặc bên chồng mới được mang thai hộ. Quy định như trên vô hình chung sẽ làm hạn chế rất nhiều trường hợp không tìm được người mang thai hộ. Và nếu may mắn tìm được thì có thể người họ hàng đó không có đủ điều kiện giúp mang thai như quy định của Luật khi trong tình hình xã hội hiện nay “bà con họ hàng” cũng… không có nhiều như ngày trước.

Tài sản của vợ chồng khi kết hôn

Quy định chế độ tài sản của vợ chồng theo thỏa thuận. Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định chưa rõ ràng về chế độ sở hữu của vợ chồng, thiếu cơ chế công khai minh bạch về tài sản chung, tài sản riêng. Luật hiện hành chủ yếu đề cập đến vấn đề đất đai, còn các tài sản khác như chứng khoán, tài sản trong doanh nghiệp thì chưa được đề cập tới, gây khó khăn trong quá trình giải quyết tranh chấp.

Nay, Luật HNGĐ 2014 quy định cụ thể: việc thỏa thuận phải được lập bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực trước khi kết hôn. Thỏa thuận này vẫn có thể được thay đổi sau khi kết hôn. Quy định này sẽ làm giảm thiểu sự tranh chấp tài sản sau ly hôn của các cặp vợ chồng trong tình hình hiện nay.

Thêm đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn

Luật Hôn nhân và gia đình mới cũng bổ sung thêm các đối tượng được yêu cầu giải quyết ly hôn.

Theo đó, thay vì chỉ vợ, chồng hoặc cả hai vợ chồng mới có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn như trước đây thì từ ngày 1-1-2015, cha, mẹ, người thân thích khác cũng có thể yêu cầu giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ. Chồng không có quyền ly hôn khi vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con dưới 12 tháng.

Áp dụng tập quán trong HNGĐ

Luật HNGĐ 2014 quy định cụ thể việc áp dụng tập quán trong hôn nhân gia đình so với Luật năm 2000, đó là: chỉ được áp dụng tập quán trong trường hợp pháp luật không có quy định và các bên không có thỏa thuận nhưng không được trái với các nguyên tắc, vi phạm các điều cấm tại Luật này. Quy định hiện hành chỉ quy định “Vận động nhân dân xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ hôn nhân và gia đình tiến bộ”. Việc quy định chung chung tạo nhiều kẽ hở, bất cập, gây khó khăn cho tòa án khi xét xử các vụ án về hôn nhân gia đình mà phải áp dụng các phong tục tập quán.

ĐL

Nguồn: Báo Pháp Luật Tp.HCM

xe-bien-xanh-vi-pham-1-6641-1416196534.j

ÔTÔ KHÔNG SANG TÊN, ĐỔI CHỦ SẼ BỊ PHẠT TỪ 2015

Nguồn: VnExpress

Cảnh sát giao thông sẽ xử phạt tới 4 triệu đồng với những tổ chức

và 2 triệu đồng với cá nhân mua bán ôtô không sang tên, đổi chủ.

Theo Nghị định 171/2013, thay thế cho Nghị định 71 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đến 1/1/2015 tới, chủ xe ôtô các loại khi mua, được tặng cho, được thừa kế… mà không sang tên đổi chủ sẽ bị phạt từ 1-2 triệu đồng với cá nhân, 2-4 triệu đồng với tổ chức. Mức phạt này đã được thay đổi thấp hơn với Nghị định 71 trước đó hơn một nửa.

xe-bien-xanh-vi-pham-1-6641-1416196534.j
Đến đầu năm 2015 tới, chủ xe là cá nhân chưa sang tên đổi chủ sẽ bị phạt 2 triệu đồng và 4 triệu đồng với xe của cơ quan, tổ chức. Ảnh minh họa. Bá Đô

Quy định phạt về hành vi này với xe máy sẽ lùi thời hạn đến 2017 và mức phạt là 100.000 – 200.000 đồng với cá nhân, và 200.000- 400.000 đồng cơ quan, tổ chức.

Trao đổi với VnExpress, thiếu tá Phạm Quang Huy, trưởng phòng tuyên truyền, hướng dẫn luật, Cục Cảnh sát Giao thông đường bộ – đường sắt (Bộ Công an) cho biết, đầu năm 2015, lực lượng CSGT trên toàn quốc sẽ áp dụng xử phạt chủ phương tiện là ôtô các loại không chuyển quyền sở hữu khi mua bán, cho tặng… Việc xử phạt sẽ thông qua ba hình thức: đăng ký xe, qua điều tra xử lý tai nạn và điều tra những xe liên quan đến các vụ án, xe gian.

Việc người dân vi phạm giao thông có bị xử lý lỗi không sang tên đổi chủ hay không? Thiếu tá Huy cho biết sẽ làm theo luật, tuy nhiên, cảnh sát giao thông sẽ tuyên truyền về quy trình, lộ trình, nhắc nhở trước khi xử phạt trên các phương tiện thông tin đại chúng và trang web của Cục CSGT (www.csgt.vn).

Trước đó, cuối năm 2012, Nghị định 71 áp dụng mức phạt 6-10 triệu đồng với ôtô và một triệu đồng với xe máy không sang tên đổi chủ. Quy định này đã gây nhiều tranh cãi và khiến hàng trăm nghìn người lo lắng vì đang sử dụng xe không chính chủ, trong đó nhiều trường hợp không thể tìm được chủ cũ.

Trước phản ứng của dư luận, cuối tháng 8/2013, Phó thủ tướng Hoàng Trung Hải đã chỉ đạo Bộ Giao thông cùng Bộ Công an và Tư pháp họp để thống nhất quan điểm về việc xử phạt hành vi không chuyển quyền sở hữu phương tiện theo quy định.

Đại diện các Bộ đã đồng thuận đề nghị bổ sung vào dự thảo quy định xử phạt hành vi không chuyển quyền sở hữu phương tiện để bảo đảm hiệu quả quản lý nhà nước, quyền và nghĩa vụ hợp pháp của chủ phương tiện. Từ đây các bộ đã đi đến thống nhất lùi thời hạn xử phạt với ôtô đến năm 2015 và xe máy đến 2017.

Trước đó, Thông tư 11 của Bộ Công an đã hết hiệu lực, hướng dẫn: việc xử lý phương tiện không sang tên đổi chủ chỉ thông qua việc đăng ký, cấp biển số, điều tra giải quyết tai nạn giao thông; qua phương tiện kỹ thuật nghiệp vụ, các trường hợp bị tạm giữ phương tiện theo quy định.

Qua điều tra các vụ án hình sự nếu phát hiện người mua hoặc bán không làm thủ tục sang tên thì công an phải xác minh hành vi vi phạm và ra quyết định xử phạt nếu quá 30 ngày làm giấy mua bán xe nhưng chưa sang tên.

Ngoài ra, CSGT không được dừng các phương tiện đang lưu thông trên đường khi không có dấu hiệu vi phạm để hỏi và xử lý với lỗi xe không chính chủ. Xe vi phạm giao thông khi xử phạt cảnh sát sẽ không hỏi, điều tra xe chính chủ hay không, cũng như không cộng dồn lỗi “xe không chính chủ” với các lỗi khác.

 

CHUYỂN NHƯỢNG HỢP ĐỒNG MUA BÁN NHÀ: KHỎI CÔNG CHỨNG

(PL) – Loại giao dịch này không buộc phải công chứng mà vẫn bảo đảm được quyền lợi của người mua nhà.

“Không buộc phải công chứng, chứng thực đối với giao dịch chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở và giao dịch góp vốn bằng nhà ở nếu có một bên là tổ chức”. Mới đây, Bộ Xây dựng có văn bản về dự thảo Luật Nhà ở sửa đổi như trên.

Bộ Xây dựng phân tích: Đối với giao dịch chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở thì bản chất là chuyển nhượng các quyền và nghĩa vụ của người mua nhà theo hợp đồng mua bán nhà ở chứ không phải là mua bán nhà ở. Giao dịch này có ba bên tham gia gồm: Chủ đầu tư, người mua nhà của chủ đầu tư và bên nhận chuyển nhượng hợp đồng. Trong đó, chủ đầu tư có trách nhiệm xác nhận vào văn bản chuyển nhượng hợp đồng để kết thúc giao dịch với bên mua nhà ở lần đầu và thực hiện giao dịch với bên nhận chuyển nhượng hợp đồng. Chủ đầu tư là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, có tư cách pháp nhân, có con dấu để thực hiện các giao dịch trên. Do đó giao dịch này không bắt buộc phải công chứng mà chỉ cần có xác nhận của chủ đầu tư để tạo thuận lợi cho người tham gia giao dịch và giảm bớt các thủ tục hành chính là hợp lý và vẫn bảo đảm được quyền lợi của người mua nhà.

Đối với giao dịch góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ chức, Bộ Xây dựng cho rằng đây cũng là giao dịch mà có một bên là tổ chức tham gia, có tư cách pháp nhân, có con dấu, hoạt động theo quy định của pháp luật. Mặt khác, khi tham gia giao dịch này thì bên góp vốn vẫn tiếp tục tham gia thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình trong toàn bộ quá trình hợp tác kinh doanh. Do đó trường hợp này cũng không nên bắt buộc phải có công chứng hoặc chứng thực để giảm bớt các thủ tục hành chính cho các bên.

Trước đó (tháng 10-2014), góp ý về dự thảo trên, Bộ Tư pháp đề nghị: Đối với các giao dịch chuyển nhượng hợp đồng mua bán nhà ở và giao dịch góp vốn bằng nhà ở mà có một bên là tổ chức thì cần phải được công chứng hoặc chứng thực để bảo đảm an toàn pháp lý, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch.

Tuy nhiên, Bộ Xây dựng không đồng tình với đề xuất và có phân tích như trên.

Về thời điểm có hiệu lực của hợp đồng về nhà ở, Bộ Tư pháp đề nghị đối với các hợp đồng phải công chứng, chứng thực thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực.

Theo Bộ Xây dựng, để chặt chẽ và đảm bảo quyền lợi của các bên, thời điểm có hiệu lực của loại hợp đồng phải công chứng, chứng thực do các bên thỏa thuận nhưng phải sau khi hợp đồng được công chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật. Trường hợp các bên không có thỏa thuận thì thời điểm có hiệu lực của hợp đồng là thời điểm công chứng, chứng thực.

HOÀNG VÂN

Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM