ÁN TREO VỚI TỘI PHẠM THAM NHŨNG – BÀI 2: “SIẾT” ÁN TREO RA SAO?

17/09/2013 – 06:15

Cơ quan chức năng đang xem xét lại trước phản ứng của dư luận về việc các bị cáo phạm tội liên quan đến tham nhũng được hưởng án treo quá nhiều.

Trả lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội, Viện trưởng VKSND Tối cao Nguyễn Hòa Bình thừa nhận dù “vận dụng luật là đúng” nhưng nếu xử treo quá nhiều thì cũng “tạo ra phản cảm”, “tạo ra suy nghĩ là chúng ta khi đấu tranh đã không quyết tâm chống tham nhũng”. Chánh án TAND Tối cao Trương Hòa Bình cho biết “qua kiểm tra thấy hầu hết số lượng bị can được tòa áp dụng án treo đều có căn cứ, đúng pháp luật” nhưng cũng nhìn nhận “không loại trừ có tiêu cực trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử án tham nhũng”.

Tỉ lệ cho treo giảm

Tại buổi làm việc với đoàn công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng sáng 11-9 vừa qua, TAND Tối cao báo cáo các trường hợp phạm tội về tham nhũng được tòa cho hưởng án treo có xu hướng giảm dần (chỉ còn 28% trong sáu tháng đầu năm 2013).

Đánh giá về những hạn chế, thiếu sót của công tác xét xử các tội phạm về tham nhũng, báo cáo của ngành tòa án thừa nhận trong một số trường hợp, việc quyết định cho bị cáo phạm tội về tham nhũng được hưởng án treo “thiếu tính thuyết phục”.

Ông Nguyễn Bá Thanh (Phó thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Trưởng ban Nội chính trung ương) nói sẽ làm rõ việc áp dụng cho hưởng án treo trong đợt kiểm tra lần này. Ảnh: N.Anh

Theo TAND Tối cao, nguyên nhân là do “hội đồng xét xử mới chỉ xem xét tính chất pháp lý đơn thuần của vụ án mà chưa xem xét đầy đủ yêu cầu đấu tranh đối với các loại tội phạm này trong tình hình hiện nay, cũng như sự ảnh hưởng của việc giải quyết vụ án đối với tình hình chính trị xã hội của địa phương nên ra các phán quyết chưa thực sự thuyết phục; đôi khi còn nặng về nhân thân, cho rằng nhân thân tốt để cho hưởng án treo trong khi các bị cáo phạm tội tham nhũng thường là những người có nhiều tình tiết giảm nhẹ như có những cống hiến nhất định hoặc phạm tội lần đầu”…

Các giải pháp

Để “siết” lại án treo với tội phạm tham nhũng, Viện trưởng VKSND Tối cao Nguyễn Hòa Bình đưa ra giải pháp của ngành kiểm sát như sau: Ngành kiểm sát sẽ kiểm sát chặt chẽ quá trình xây dựng các cáo trạng có đề xuất án treo. Với vụ án tham nhũng mà cấp dưới đề xuất án treo thì phải trình lên cấp trên để kiểm tra. Trong trường hợp tòa tuyên án treo không phải là đề nghị của ngành thì đại diện VKS phải báo cáo cấp trên để xem xét kháng nghị. Trong đề xuất của VKS đối với người phạm tội về tham nhũng thì không áp dụng hai tình tiết phạm tội lần đầu và có nhân thân tốt…

Về giải pháp liên ngành, ông Nguyễn Hòa Bình nói: “Chúng tôi cũng đang tập hợp tình hình, có đánh giá và sẽ tổ chức một hội nghị bàn với cơ quan điều tra, tòa về những biện pháp để giảm án treo trong án tham nhũng”.

Trong khi đó, Chánh án TAND Tối cao Trương Hòa Bình cho biết ngành tòa án sẽ xem xét hướng dẫn cụ thể, chặt chẽ hơn về chế định án treo, nhất là hạn chế việc áp dụng chế định này đối với các tội phạm về tham nhũng, chức vụ. Ngoài quy định tại Điều 60 BLHS và bốn điều kiện cho hưởng án treo theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì theo tinh thần của Luật Phòng, chống tham nhũng, đối với các bị cáo phạm tội tham nhũng là người đứng đầu cơ quan, tổ chức sẽ không được hưởng án treo; người phạm tội tham nhũng không chủ động khai báo, không tích cực hạn chế thiệt hại, không tự giác nộp lại tài sản… cũng không được hưởng án treo…

Sau khi làm việc với TAND Tối cao, đoàn công tác của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng thấy một số vấn đề cần khắc phục ngay, trong đó có việc tỉ lệ án treo dành cho tội phạm tham nhũng quá cao, gây hoài nghi trong xã hội. “Hôm trước họp Ban Chỉ đạo có yêu cầu siết lại án treo. Luật quy định như vậy nhưng áp dụng cụ thể thì lúc nào cho hưởng án treo, lúc nào không. Đợt kiểm tra lần này, chúng tôi sẽ làm rõ” – ông Nguyễn Bá Thanh (Phó Thường trực Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, Trưởng ban Nội chính Trung ương), nói.

Một số nhiệm vụ Quốc hội yêu cầu

… Công tác phòng ngừa, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, phòng, chống tham nhũng, công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án còn có những hạn chế. Tình hình vi phạm pháp luật và tội phạm, tham nhũng còn diễn biến phức tạp, trên một số lĩnh vực có xu hướng gia tăng, nghiêm trọng hơn cả về quy mô và tính chất. Công tác phát hiện, xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm, tham nhũng hiệu quả chưa cao, hiệu lực răn đe, phòng ngừa thấp. Tiến độ và chất lượng giải quyết nhiều vụ án nhất là các vụ án về kinh tế, tham nhũng lớn, trọng điểm còn kéo dài, chưa nghiêm minh…

… TAND Tối cao chỉ đạo các tòa án tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa; bảo đảm việc giải quyết, xét xử và ra bản án, quyết định đúng pháp luật… Việc cho bị cáo hưởng án treo, cải tạo không giam giữ phải đúng quy định của pháp luật…

Trích Nghị quyết số 37 ngày 23-11-2012 của Quốc hội (về công tác phòng, chống vi phạm pháp luật và tội phạm, công tác của VKSND, của TAND và công tác thi hành án năm 2013)

PHAN THƯƠNG

(Nguồn: Báo Pháp Luật Tp.HCM)

ÁN TREO VỚI TỘI PHẠM THAM NHŨNG – BÀI 3: DỰ THẢO HƯỚNG DẪN MỚI: CHƯA RÕ!

18/09/2013 – 06:15

TAND Tối cao vừa đưa dự thảo nghị quyết hướng dẫn mới về án treo để lấy ý kiến góp ý.

Điều đáng nói là dự thảo chưa thể hiện được rõ ràng giải pháp siết án treo với tội phạm tham nhũng.

Đây là bản dự thảo lần hai của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao với tên gọi là “Nghị quyết hướng dẫn áp dụng quy định tại Điều 60 của BLHS về án treo”.

Nếu được ban hành, nghị quyết sẽ thay thế mục 6 Nghị quyết 01 ngày 2-10-2007 của Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao.

Không hướng dẫn riêng

Như Pháp Luật TP.HCM đã thông tin, dư luận rất mong chờ hướng dẫn mới của TAND Tối cao sẽ hiện thực hóa được quyết tâm và các giải pháp mà lãnh đạo hai ngành kiểm sát, tòa án đưa ra để siết lại việc cho tội phạm tham nhũng hưởng án treo. Thế nhưng dự thảo lại chưa thể hiện rõ nét vấn đề này.

Trong dự thảo, từ các điều kiện để cho hưởng án treo đến các trường hợp không được hưởng án treo đều không có dòng nào hướng dẫn riêng việc áp dụng án treo đối với tội phạm tham nhũng. Trong khi như chúng tôi đã phản ánh ở các số báo trước, đây đang là một trong những điểm nóng làm dư luận bức xúc trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng.

Về các điều kiện để cho hưởng án treo, dự thảo có một số thay đổi: Có năm điều kiện để cho hưởng án treo (hướng dẫn hiện hành là bốn điều kiện). Tuy nhiên, điều kiện thứ năm này cũng không hẳn là hoàn toàn mới (có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng, trong khi hướng dẫn hiện hành là có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng).

Ngoài ra, dự thảo còn một số thay đổi: Bỏ các hướng dẫn “không phân biệt về tội gì”; “trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù thì cũng có thể cho hưởng án treo”… Thêm giải thích “người đã được xóa án tích thì không coi là có tiền án; người đã được xóa kỷ luật, hết thời hiệu được coi là chưa bị xử lý hành chính thì không coi là có tiền sự”… (xin xem bảng so sánh).

Về các trường hợp không được hưởng án treo, ngoài quy định “trường hợp bị xử phạt tù đã bị tạm giam thì chỉ cho hưởng án treo khi thời gian đã bị tạm giam ngắn hơn thời hạn phạt tù” như hướng dẫn hiện hành, dự thảo bổ sung bốn trường hợp mới:

– không cho hưởng án treo đối với người phạm tội với vai trò là người tổ chức, cầm đầu hoặc chủ mưu trong vụ án có đồng phạm.

– Không cho hưởng án treo đối với trường hợp phạm tội nhiều lần hoặc phạm nhiều tội.

– Không cho hưởng án treo đối với trường hợp có tài liệu chứng cứ chứng minh là ngoài lần phạm tội và bị đưa ra xét xử, họ còn có các lần phạm tội khác (có thể đã bị xét xử hoặc sẽ bị xét xử trong một vụ án khác).

– Không cho hưởng án treo đối với những trường hợp mà việc cho họ hưởng án treo gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Có hiệu quả?

Như vậy, các trường hợp không được hưởng án treo của dự thảo chưa cụ thể hóa được rõ ràng quan điểm trong báo cáo của TAND Tối cao tại buổi làm việc với đoàn công tác của Ban chỉ đạo phòng, chống tham nhũng Trung ương ngày 11-9 vừa qua. Đó là hạn chế việc áp dụng chế định án treo đối với các tội phạm về tham nhũng, chức vụ; đối với các bị cáo phạm tội tham nhũng là người đứng đầu cơ quan, tổ chức sẽ không được hưởng án treo; người phạm tội tham nhũng không chủ động khai báo, không tích cực hạn chế thiệt hại, không tự giác nộp lại tài sản… cũng không được hưởng án treo…

Dự thảo quy định không cho hưởng án treo đối với những trường hợp mà việc cho họ hưởng án treo gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Thực chất, điều kiện này vốn đã được ghi nhận trong hướng dẫn hiện hành (Điểm d tiểu mục 6.1 mục 6 Nghị quyết 01). Tuy nhiên, như đã nói, các tòa lâu nay đều “quên” điều kiện này khi cho các bị cáo phạm tội về tham nhũng hưởng án treo.

Không có hướng dẫn riêng về tội phạm tham nhũng, những hướng dẫn khác không chỉ rõ được quan điểm bắt buộc các tòa hạn chế áp dụng án treo với tội phạm tham nhũng, liệu dự thảo nghị quyết có đáp ứng được yêu cầu phòng, chống tham nhũng trong tình hình hiện nay?

Chỉ cho “treo” với tội ít nghiêm trọng

Tôi đồng tình là phải hạn chế đến mức thấp nhất việc cho người phạm tội về tham nhũng hưởng án treo. Muốn vậy, Hội đồng thẩm phán TAND Tối cao hoặc liên ngành trung ương cần hướng dẫn lại các điều kiện cho hưởng án treo theo hướng không áp dụng án treo đối với tội phạm tham nhũng trong trường hợp phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng. Nghĩa là chỉ có thể cho hưởng án treo nếu tội phạm tham nhũng đó là tội ít nghiêm trọng (khung hình phạt từ ba năm tù trở xuống). Chỉ quy định như thế mới hiệu quả vì hầu hết các tội về tham nhũng trong BLHS là tội nghiêm trọng trở lên.

Kiểm sát viên NGUYỄN KHÁNH TOÀN,  Viện Phúc thẩm III VKSND Tối cao

Cấm hẳn

Vài tháng trước, VKSND Tối cao đã chỉ đạo VKS các cấp không đề nghị áp dụng hai tình tiết giảm nhẹ là phạm tội lần đầu, có nhân thân tốt nhằm xem xét cho bị cáo được hưởng án treo. Nhưng việc có xử treo hay không tùy thuộc vào tòa. Ai cũng biết tham nhũng là quốc nạn. Đã là quốc nạn thì không việc gì phải xử treo. Đáng lẽ khoản 2 Điều 2 dự thảo nghị quyết phải liệt kê thêm trường hợp án tham nhũng.

Kiểm sát viên ĐỖ THÀNH ĐẠT,  VKSND TP.HCM

Tiểu mục 6.1 mục 6 Nghị quyết 01

Chỉ cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Bị xử phạt tù không quá ba năm, không phân biệt về tội gì;

Trường hợp người bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội mà khi tổng hợp hình phạt, hình phạt chung không quá ba năm tù thì cũng có thể cho hưởng án treo.

b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự; có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú cụ thể, rõ ràng;

c) Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng, trong đó có ít nhất là một tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 của BLHS. Trường hợp vừa có tình tiết giảm nhẹ vừa có tình tiết tăng nặng thì tình tiết giảm nhẹ phải nhiều hơn tình tiết tăng nặng từ hai tình tiết trở lên;

d) Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

Khoản 1 Điều 2 dự thảo nghị quyết mới

Chỉ xem xét cho người bị xử phạt tù hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

a) Bị xử phạt tù không quá ba năm;

b) Có nhân thân tốt được chứng minh là ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành đúng chính sách, pháp luật, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân; chưa có tiền án, tiền sự (người đã được xóa án tích thì không coi là có tiền án; người đã được xóa kỷ luật, hết thời hiệu được coi là chưa bị xử lý hành chính thì không coi là có tiền sự);

c) Có nơi cư trú cụ thể, rõ ràng;

d) Có từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên và không có tình tiết tăng nặng;

đ) Nếu không bắt họ đi chấp hành hình phạt tù thì không gây nguy hiểm cho xã hội hoặc không gây ảnh hưởng xấu trong cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm.

PHAN THƯƠNG

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)

TỪ 15-10, PHẠT NGƯỜI ĐI ĐÒ KHÔNG MẶC ÁO PHAO

17/09/2013 – 23:45

(PL)- “Từ ngày 15-10 (ngày Nghị định 93/2013 có hiệu lực thi hành), Thanh tra Sở GTVT sẽ xử phạt khách đi đò không mặc áo phao đến 200.000 đồng.

Người lái đò nếu không mang theo hoặc không có chứng chỉ huấn luyện an toàn hoặc chứng chỉ nghiệp vụ sẽ bị phạt đến 500.000 đồng…” – ngày 17-9, ông Nguyễn Bật Hận, Phó Chánh Thanh tra Sở GTVT TP.HCM, cho biết.

Từ ngày 15-10, người đi đò không mặc áo phao sẽ bị phạt đến 200.000 đồng.

Những ngày qua, Thanh tra GTVT đã mở đợt tuyên truyền tại 36 bến đò ngang trên địa bàn TP về việc thực hiện nghiêm Nghị định 93/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông hàng hải, đường thủy nội địa.

Theo Nghị định 93, chánh Thanh tra Sở GTVT có quyền phạt tiền đến 37,5 triệu đồng; tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, bằng, chứng chỉ chuyên môn hoặc chứng chỉ hành nghề… của người lái, chủ tàu, chủ bến thủy nội địa.

L.ĐỨC – H.TUYÊN

(Nguồn: Báo Pháp Luật Tp.HCM)

SIẾT BẰNG LÁI ÔTÔ

07/07/2013 – 07:05

Ngày 8-7, Sở GTVT TP.HCM sẽ tổ chức đợt thi sát hạch đầu tiên theo bộ đề mới. Với số câu hỏi lý thuyết tăng thêm, thi sát hạch trên sa hình và đường trường khó hơn, thời gian “đi hình” lại ít hơn trong khi kỳ thi được giám sát chặt chẽ hơn… nên việc lấy được bằng lái xe sẽ không dễ như trước đây.

Bộ đề thi sát hạch cấp bằng lái ô tô mới gồm 450 câu hỏi được các trường dạy từ sau ngày 1-1-2013, thay thế bộ đề thi cũ 405 câu.

Hết kiểu học tủ

Kết cấu của bộ đề này gồm các phần: Khái niệm về quy tắc giao thông đường bộ, nghiệp vụ vận tải, đạo đức nghề nghiệp người lái xe kinh doanh vận tải, kỹ thuật lái ô tô…Đồng thời, theo quy định mới thời gian sát hạch lý thuyết các hạng bằng lái ô tô là 20 phút (rút ngắn 5 phút). Người thi hạng bằng B1, B2 phải trả lời đúng đáp án trắc nghiệm 26/30 câu hỏi và hạng bằng C, D, E là 28/30 câu hỏi. Riêng thi hạng A1 phải trả lời đúng đáp án 12/15 câu hỏi và hạng A2 phải trả lời đúng đáp án 14/15 câu hỏi.

Theo ông Nguyễn Văn Quyền, Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Đường bộ VN, bộ đề mới “dày” hơn với các nội dung được bổ sung nhằm nâng cao đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử, kỹ năng xử lý tình huống trên đường… Với bộ đề này, các chiêu học tủ, học mẹo trước đây sẽ không có tác dụng.

Tuy nhiên, theo anh Nguyễn Mạnh Hùng, học viên sẽ dự thi lấy bằng B1 lần này thì bộ đề quá… “đồ sộ” và có nhiều phần không hợp với hạng bằng mà anh định lấy. “Tôi lấy bằng B1 để chạy xe nhà mà phải “nhồi” cả các câu hỏi về kinh doanh vận tải thì “nặng” và “phí” quá!” – anh Hùng nói. Còn ông Dương Tự Lực, Trưởng phòng Quản lý Sát hạch và Cấp giấy phép lái xe, Sở GTVT, cho rằng bộ đề 450 câu giành cho mọi đối tượng và có tính liên thông giữa các hạng bằng, nó không giành cho cá biệt từng người. “Anh có bằng B1 rồi nhưng mai này muốn lên hạng B2 hoặc C, D thì việc học 450 câu là đâu có thừa. Lại nữa, không lý anh nói tôi chỉ lái xe trong TP nên không cần học hệ thống biển báo, cách lái xe qua đèo dốc sao?” – ông Lực nói.

Tuy rút ngắn thời gian thi nhưng nếu học viên học hành bài bản thì việc lấy được bằng vẫn trong tầm tay. Ảnh: LĐ

Hết trả lời theo… mẹo cũ

Đến ngày 6-7, tại Trung tâm Sát hạch lái xe Hoàng Gia, hệ thống thiết bị sát hạch lý thuyết và thực hành đã được cài đặt xong phần mềm mới. Cạnh đó, các camera giám sát, màn hình LCD đã được đặt tại các phòng thi lý thuyết của trung tâm. Theo đó, bốn màn hình LCD 32 inch được lắp đặt để công khai quá trình và kết quả sát hạch lái xe, gồm một màn hình tại hội đồng thi và ba màn hình tại phòng chờ sát hạch để các thí sinh chờ dự thi xem xét và giám sát.

Để vượt qua được kỳ sát hạch lý thuyết đòi hỏi người học phải nắm vững bộ câu hỏi, những người học yếu sẽ không thể đáp ứng được yêu cầu. Ông Nguyễn Hoàng Long, Giám đốc Trung tâm Sát hạch lái xe Hoàng Gia, cho biết bộ đề mới yêu cầu cách thức làm bài thi khác trước. Cụ thể, một câu hỏi có thể có 2-4 ý trả lời và có 1-2 ý đúng chứ không phải chỉ có một lựa chọn duy nhất như trước. Thí sinh dự thi sẽ phải lựa chọn tất cả phương án đúng mới được chấm điểm, nếu trả lời thiếu ý đúng cũng coi như là sai. “Không còn các kiểu đáp án “mẹo” như “tất cả phương án trên đều đúng”, “tất cả phương án trên đều sai”, “cả hai phương án trên đều đúng”…!” – ông Long nói. Ngoài ra, ở phần thi lý thuyết còn thêm nhiều câu hỏi về biển báo cấm, biển báo nguy hiểm, biển hiệu lệnh…

Khó lùi vào “chuồng” hơn

Theo ông Nguyễn Hoàng Long, giáo trình mới yêu cầu học viên phải học thêm đi đường zíc zắc, thực hành xe số tự động. Tuy nhiên, các phần học bổ sung này chưa phải thi. Nhưng phần thi thực hành lùi “chuồng” (lùi xe vào nơi đỗ) khó hơn trước do chiều rộng của đường lùi bị bóp hẹp 1,3 m (từ 6,5 m bóp còn 5,2 m) và chiều dài của quãng đường trước “chuồng” bị rút xuống còn 12,8 m (trước đây là 15,25 m). “Với việc đường lùi bị bóp hông và rút ngắn như thế thì người học phải tập nhiều hơn mới mong đỗ. Chưa kể, nếu Bộ không cho đánh tay lái chết (đánh vô lăng khi xe chưa chạy lùi) thì trong vòng 2 phút khó de vô lọt “chuồng” được!” – một học viên của Trường Hoàng Gia cho biết.

Theo một cán bộ của Tổng cục Đường bộ Việt Nam, trước khi bước vào cuộc sát hạch ngày 8-7, sẽ kiểm tra lại toàn bộ các vị trí trên sa hình để nhổ bỏ, xóa hết các vật, vệt chuẩn được các giáo viên dạy lái xe cắm, vẽ cho học viên căn theo khi học lái trước đây. Cạnh đó, với các xe sát hạch sẽ được kiểm tra kỹ, loại bỏ hết các vật căn, “đầu ruồi” như bao thuốc lá, lọ nước hoa…

Ông Nguyễn Anh Dũng, Giám đốc Trung tâm Sát hạch lái xe Củ Chi, cho biết thêm hiện nay, với thời gian thi sa hình là 20 phút, chỉ có khoảng 35% thí sinh đi hết 15 phút. Như vậy, khi áp dụng thời gian thi rút ngắn xuống còn 15 phút thì số người thi sa hình bị rớt sẽ rất cao. Trong khi đó, theo ông Nguyễn Văn Quyền, qua khảo sát chỉ có một số học viên xử lý tình huống, đi trong sa hình chậm, không đạt. Việc rút ngắn thời gian thi vẫn đảm bảo với số đông học viên đậu, lấy được bằng.

Trung tá TRẦN VĂN THƯƠNG, Phó Trưởng phòng CSGT đường bộ – đường sắt, Công an TP.HCM:

Nhiều trường hợp người mua bằng gây TNGT

Đã có nhiều vụ tai nạn giao thông mà tài xế thừa nhận đã mua bằng chứ không hề đi học. Những trường hợp gây hậu quả nghiêm trọng thì người lái sẽ bị xem xét trách nhiệm hình sự. Do vậy, người dân có nhu cầu lái xe các loại nên ý thức tuân thủ thời gian và chương trình của cơ sở đào tạo để có khả năng đáp ứng yêu cầu thực tế.

Kết cấu và những điểm mới ở bộ đề 450 câu

– Khái niệm và quy tắc giao thông đường bộ: 145 câu.

– Nghiệp vụ vận tải: 30 câu.

– Văn hóa, đạo đức nghề nghiệp người lái xe: 25 câu.

– Kỹ thuật lái xe ô tô: 35 câu.

– Cấu tạo và sửa chữa xe ô tô: 20 câu.

– Hệ thống biển báo hiệu đ­ường bộ: 100 câu.

– Giải các thế sa hình: 95 câu.

Chụp ảnh nhằm chống thi hộ

Theo quy trình cũ, trên biên bản kết quả thi của học viên có dán ảnh 3×4 (có thể dán trước hoặc sau khi có kết quả). Từ đây đã nảy sinh tình trạng thi hộ hoặc giám thị thông đồng khi nào thí sinh thi đậu thì mới dán ảnh vào.

Nay theo quy định mới, thí sinh vào phòng thi lý thuyết sau khi trình chứng minh nhân dân xong thì chụp ảnh kỹ thuật số để in vào biên bản kết quả luôn (ảnh này cũng được lưu trữ để sau này in lên bằng nhựa). Với cách này, trên biên bản kết quả (thi đạt hoặc không đạt) đều in chính xác khuôn mặt của thí sinh.

Khi bước sang thi thực hành đi trong sa hình (hoặc sau này tiến thêm là trên đường trường) học viên phải ngồi ngay ngắn trước vô lăng để camera chụp ảnh truyền về phòng dữ liệu của trung tâm sát hạch nhằm nhận diện có đúng với khuôn mặt người vừa thi lý thuyết không. Nếu đúng, máy mới phát lệnh cho xe xuất phát.

Ảnh chụp trước khi xuất phát cũng được truyền về để in lên biên bản kết quả sát hạch thực hành.

LƯU ĐỨC – HOÀNG TUYÊN

(Nguồn: Báo Pháp Luật Tp.HCM)

BỊ GIỮ GIẤY HỒNG, AI GIẢI QUYẾT?

08/10/2013 – 06:00

Thời gian qua đã xảy ra nhiều trường hợp bị giữ giấy tờ nhà, đất trái phép nhưng không cơ quan nào giải quyết. Để tháo gỡ, nhiều chuyên gia cho rằng ngành tòa án nên vào cuộc…

Vợ chồng bà Võ Thị Bích Tuyền kết hôn từ năm 1998, có hai con chung và tạo lập được một căn nhà ở phường 5, TP Mỹ Tho (Tiền Giang). Năm 2010, vợ chồng bà ly hôn, sau đó bà dẫn hai con đi thuê nhà ở. Một năm sau, chồng cũ của bà bị bệnh nặng, bà dẫn con quay về chăm sóc.

Chạy lòng vòng mãi mới xong

Bệnh quá nặng, chồng bà Tuyền không qua khỏi. Trước khi mất, ông lập di chúc để lại một nửa căn nhà (thuộc phần sở hữu của ông) cho hai con và giao bà Tuyền toàn quyền quản lý, cho thuê để có thu nhập nuôi con… Từ đó, bà Tuyền và hai con ở tầng trên, còn tầng trệt thì cho thuê.

Bà Tuyền kể: “Trưa 13-11-2011, mẹ chồng cũ và người nhà đến kêu tôi cho mượn giấy hồng, di chúc, quyết định công nhận thuận tình ly hôn, giấy chứng tử để xem. Bất ngờ sau khi cầm, bà ấy đem ngay về. Tôi đã nhiều lần đòi lại nhưng bà ấy không chịu trả”.

Bà Tuyền gửi đơn nhờ UBND phường 5 can thiệp. Cán bộ phường nói bà khởi kiện ra TAND TP Mỹ Tho. Tháng 11-2011, TAND TP Mỹ Tho trả lại đơn khởi kiện cho bà Tuyền. Theo tòa, yêu cầu đòi lại giấy tờ đang bị người khác giữ không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 168 BLTTDS và hướng dẫn trong Công văn 141 ngày 21-9-2011 của TAND Tối cao.

Bà Võ Thị Bích Tuyền đang trình bày sự việc. Ảnh: KP

Bà Tuyền lại gửi đơn đến UBND phường 5. Tại phường, mẹ chồng cũ của bà cương quyết không chịu trả giấy tờ. UBND phường thuyết phục, mẹ chồng của bà Tuyền vẫn khăng khăng bảo “giữ cho đến khi hai cháu nội đủ 18 tuổi thì giao lại cho chúng”.

Bà Tuyền đến Phòng TN&MT TP Mỹ Tho xin cấp lại giấy hồng thì bị từ chối vì không thuộc trường hợp được cấp lại. Không biết làm sao, bà đành gửi đơn tố cáo đến Công an TP Mỹ Tho. Tháng 2-2012, Công an TP Mỹ Tho trả lời là không có căn cứ xử lý hình sự.

Bà Tuyền mệt mỏi: “Không có giấy hồng để đi công chứng gia hạn hợp đồng, bên thuê nhà không thuê nữa. Tôi mất nguồn thu nhập nuôi con. Thiệt khổ!”. Bấy giờ, có người “mách nước”, bà lặn lội đến cầu cứu UBND xã Thanh Bình, Chợ Gạo, Tiền Giang (nơi gia đình chồng cũ của bà thường trú). UBND xã Thanh Bình đứng ra vận động mẹ chồng cũ của bà trả giấy tờ nhưng không được.

Tháng 10-2012, bà Tuyền gửi đơn kiện gia đình chồng cũ ra TAND huyện Chợ Gạo. Tòa này cũng trả lại đơn kiện với lý do giống như TAND TP Mỹ Tho. Tháng 4-2013, một lần nữa bà Tuyền lại gửi đơn đến Công an TP Mỹ Tho nhưng cơ quan này tiếp tục trả lời là không xử lý hình sự.

Mới đây, mẹ chồng cũ của bà Tuyền mất. Bà tiếp tục nộp hồ sơ xin cấp lại giấy hồng. Ngày 23-7, UBND phường 5 đã xác nhận hồ sơ và chuyển Phòng TN&MT TP Mỹ Tho xem xét.

Ông Lê Văn Hùng (Phó phòng TN&MT TP Mỹ Tho) cho biết: “Trước kia chúng tôi không thể cấp lại giấy hồng cho bà Tuyền vì Nghị định 88/2009 của Chính phủ quy định chỉ cấp lại khi giấy hồng cũ bị mất. Thực tế giấy hồng đâu có bị mất mà bị người khác giữ. Cấp thêm giấy là căn nhà sẽ tồn tại tới hai giấy hồng. Phải chi có bản án của tòa thì có thể xem xét nhưng tòa không giải quyết nên chúng tôi không giúp được. Tuy nhiên, hiện mẹ chồng cũ của bà Tuyền đã mất, giấy hồng này không biết ở đâu, xem như đã bị mất nên chúng tôi sẽ cấp lại giấy mới cho bà Tuyền”.

Tòa nên thụ lý?

Cuối cùng vụ việc của bà Tuyền cũng có hướng gỡ. Nhưng điều đáng nói là trong những năm qua đã xảy ra rất nhiều trường hợp bị giữ giấy tờ nhà, đất tương tự và không phải ai cũng may mắn được cấp lại giấy tờ như bà Tuyền. Một vấn đề được đặt ra: Tòa án có nên thụ lý, giải quyết các tranh chấp này để các cơ quan khác có căn cứ cấp mới hoặc giúp đương sự lấy lại giấy tờ? Chúng tôi đã trao đổi và nhận được hai luồng quan điểm.

Luật sư Nguyễn Văn Hậu (Phó Chủ tịch Hội Luật gia TP.HCM) nói việc ngành tòa án áp dụng Công văn 141 để từ chối thụ lý là đúng. Ông phân tích: Công văn 141 hướng dẫn giấy tờ nhà đất không phải là “giấy tờ có giá” theo Điều 163 BLDS là hoàn toàn đúng quy định hiện hành. Cụ thể, Điều 4 Luật Đất đai quy định giấy hồng, giấy đỏ chỉ là giấy tờ chứng nhận công dân, tổ chức có quyền sử dụng đất tại một thửa đất nhất định hay quyền sở hữu nhà ở và các tài sản khác gắn liền với đất. Điều 6 Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quy định: “Giấy tờ có giá là bằng chứng xác nhận nghĩa vụ trả nợ giữa tổ chức phát hành giấy tờ có giá với người sở hữu giấy tờ có giá trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và các điều kiện khác”. Điều 3 Nghị định 163/2006 của Chính phủ quy định: “Giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và được phép giao dịch”.

Do đó, khi giấy tờ nhà đất không phải là “giấy tờ có giá” (tài sản) thì việc ngành tòa án từ chối thụ lý là đúng quy định tại Mục 1 Chương III BLTTDS (những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa).

Tuy nhiên, TS Nguyễn Văn Tiến (Trưởng bộ môn tố tụng dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM) lại cho rằng giấy tờ nhà đất là một dạng “tài sản đặc biệt”. Ông lập luận: Điều 181 BLDS quy định quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự. Trong khi đó, muốn chứng minh quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà cũng như giao dịch tài sản nhà, đất thì người dân phải xuất trình giấy chứng nhận và kèm theo giấy này mới hợp pháp. Nghịch lý ở chỗ bị xem là “không có giá” nhưng giấy tờ nhà, đất được đem thế chấp và ngân hàng cũng chỉ giữ giấy tờ để làm tin. Ngoài ra, theo Điều 106 Luật Đất đai, người sử dụng đất được thực hiện các quyền chuyển nhượng, cho thuê… khi có giấy chứng nhận. Để thực hiện quyền này thì trước hết người sử dụng đất phải có giấy chứng nhận, đồng nghĩa với việc giấy chứng nhận cần phải được xem là tài sản và khi người dân kiện đòi thì tòa phải thụ lý.

Kiến nghị sửa luật

Có thể hiểu là giấy hồng, giấy đỏ luôn đi kèm và là yếu tố không thể thiếu đối với nhà, đất. Nếu thiếu một trong hai yếu tố thì không có đầy đủ quyền về tài sản đối với phần nhà, đất đó nữa.

Công văn 141 cho rằng tòa án phải hướng dẫn người khởi kiện yêu cầu cơ quan chức năng có thẩm quyền giải quyết nhưng lại không chỉ ra đó là cơ quan nào. Đã vậy, công văn này còn chỉ dẫn trường hợp bị mất giấy tờ thì chủ sở hữu có quyền đề nghị cơ quan chức năng có thẩm quyền cấp lại giấy tờ bị mất trong khi trường hợp này có bị mất đâu mà cấp giấy mới.

Khi bị chiếm giữ giấy tờ nhà, đất, người dân không còn cách nào khác là phải nhờ đến các cơ quan chức năng nhưng lại bị từ chối. Ủy ban chỉ tòa, tòa chỉ ủy ban, công an không can thiệp. Một khi cơ quan chức năng bó tay thì rất nguy hiểm bởi dễ dàng đẩy người dân đến chuyện dùng “luật rừng” để giải quyết tranh chấp.

Tôi nghĩ nếu TAND Tối cao cho rằng giấy hồng, giấy đỏ không phải là tài sản thì phải kiến nghị Quốc hội điều chỉnh luật cho phù hợp chứ không thể cứ mãi “cấm cửa” người khởi kiện.

Luật sư LÊ VĂN HOANĐoàn Luật sư TP.HCM

KIM PHỤNG

(Nguồn: Báo Pháp Luật Tp.HCM)

ÁN HÀNH CHÍNH: RỐI THỜI HIỆU KHỞI KIỆN!

07/10/2013 – 06:15

Trường hợp khiếu nại trước khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, đến khi có quyết định giải quyết khiếu nại thì hết thời hiệu khởi kiện xảy ra rất phổ biến và đang gây nhiều tranh cãi.

Mới đây, TAND quận Thủ Đức (TP.HCM) đã ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ ông NVX khởi kiện Quyết định số 6718 ngày 7-12-2010 của UBND quận này (về việc thu hồi và giải phóng mặt bằng). Theo tòa, thời điểm ông X. khởi kiện (ngày 4-7-2012) là đã không còn thời hiệu khởi kiện theo Luật Tố tụng hành chính và Nghị quyết số 56 ngày 24-11-2010 của Quốc hội (về việc thi hành Luật Tố tụng hành chính).

Chậm khởi kiện vì phải lo khiếu nại

Cụ thể, theo điểm a khoản 2 Điều 104 Luật Tố tụng hành chính quy định thời hiệu khởi kiện là một năm kể từ ngày nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính, quyết định kỷ luật buộc thôi việc.

Cạnh đó, theo Điều 3 Nghị quyết 56 của Quốc hội, trường hợp người khiếu nại đã thực hiện việc khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai đến chủ tịch UBND cấp huyện, chủ tịch UBND cấp tỉnh từ ngày 1-6-2006 đến ngày 1-7-2011 mà không được giải quyết hoặc đã được giải quyết nhưng người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại thì có quyền khởi kiện tại TAND có thẩm quyền đến hết ngày 1-7-2012. Sau ngày này, người khiếu nại thuộc trường hợp trên không còn quyền khởi kiện ra tòa vì hết thời hiệu khởi kiện. Như vậy, đối chiếu với trường hợp của ông X. thì ông đã khởi kiện chậm mất ba ngày so với thời hạn cuối cùng mà Nghị quyết 56 đặt ra (1-7-2012).

Không đồng tình, ông X. kháng cáo. Ông X. cho rằng sở dĩ ông chậm khởi kiện là bởi phải đi theo con đường khiếu nại theo Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2005) vì đây là thủ tục bắt buộc trước khi khởi kiện án hành chính theo quy định tại thời điểm đó.

Đầu tiên, nhận được quyết định của UBND quận Thủ Đức, ông đã khiếu nại tới UBND quận Thủ Đức. Tháng 3-2011, UBND quận Thủ Đức ban hành quyết định giải quyết khiếu nại của ông X. với nội dung là bác đơn khiếu nại. Sau đó, ông X. khiếu nại tiếp lên UBND TP.HCM. Ngày 3-7-2012, ông nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại ngày 25-6-2012 của UBND TP.HCM với nội dung bác đơn khiếu nại và công nhận Quyết định giải quyết khiếu nại của UBND quận Thủ Đức. Một ngày sau, ông X. đã khởi kiện ra TAND quận Thủ Đức.

Theo ông X., thời hiệu khởi kiện trong trường hợp của ông phải được tính từ ngày 3-7-2012 (ngày nhận được Quyết định giải quyết khiếu nại của chủ tịch UBND TP) chứ không phải tính từ ngày 7-12-2010 (ngày có Quyết định số 6718 về việc thu hồi, giải phóng mặt bằng của UBND quận Thủ Đức). Chính Quyết định giải quyết khiếu nại ngày 3-7-2012 của chủ tịch UBND TP.HCM cũng nêu rất rõ: Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày nhận được quyết định này, ông X. có quyền khởi kiện vụ án tại Tòa hành chính theo quy định. Nếu quá thời hạn trên, ông X. không thực hiện việc khởi kiện thì quyết định này có hiệu lực.

Nhiều quan điểm

Những trường hợp đi khiếu nại trước khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực, đến khi có quyết định giải quyết khiếu nại thì đã hết thời hiệu khởi kiện như ông X. khá phổ biến. Dù Nghị quyết 56 quy định rất rõ là sau ngày 1-7-2012, họ không còn quyền khởi kiện ra tòa nhưng trong thực tiễn xét xử, một số cán bộ tố tụng lại có quan điểm khác.

Tháng 8-2012, ông V. khởi kiện một quyết định hành chính ngày 16-7-2003 của UBND tỉnh này. TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cũng vận dụng quy định của Nghị quyết 56 để nhận định thời hiệu khởi kiện đã hết để đình chỉ giải quyết vụ án.

Ông V. kháng cáo. Tại phiên phúc thẩm gần đây của Tòa phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM, đại diện VKS phân tích: Luật Tố tụng hành chính ngày 1-7-2011 có hiệu lực, trong khi đến ngày 15-6-2012 (gần một năm sau), ông V. mới nhận được quyết định trả lời khiếu nại của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (nội dung là bác khiếu nại). Trong quyết định này cũng nêu rõ trong thời hạn 45 ngày kể từ ngày nhận được quyết định, ông V. có quyền khởi kiện ra tòa.

Như vậy, thời điểm khởi kiện phải được tính từ ngày 15-6-2012 (ngày có quyết định trả lời khiếu nại của UBND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu). Bởi khoản 1 Điều 104 Luật Tố tụng hành chính thể hiện thời hiệu khởi kiện là thời hạn mà cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyền khởi kiện để yêu cầu tòa giải quyết vụ án hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp bị xâm phạm; nếu thời hạn đó kết thúc thì mất quyền khởi kiện. Việc khiếu nại của người bị kiện chưa được giải quyết theo Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án hành chính (cũ) là chưa có trả lời khiếu nại nên không có cơ sở khởi kiện ra tòa. Đến ngày UBND trả lời khiếu nại thì đây mới là mốc xác định được quyền khởi kiện và cũng chưa quá một năm theo Luật Tố tụng hành chính. Do đó, việc đình chỉ giải quyết vụ án của tòa sơ thẩm là sai.

Tòa phúc thẩm đồng tình với phân tích trên và đã hủy quyết định đình chỉ giải quyết vụ án của TAND tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, giao hồ sơ về cho tòa này giải quyết lại.

Tương tự, ngày 24-12-2012, bà Nguyễn Thị Dung khởi kiện yêu cầu TAND quận 9 (TP.HCM) hủy hai quyết định hành chính của UBND quận này. Tòa trả lại đơn khởi kiện với lý do các quyết định được ban hành từ ngày 22-9-2011, đến thời điểm bà Dung khởi kiện thì đã quá thời hạn một năm theo Luật Tố tụng hành chính.

Bà Dung khiếu nại, cho rằng sau khi UBND quận 9 ra quyết định, bà đã khiếu nại đến UBND quận. Tháng 8-2012, UBND mới có quyết định trả lời khiếu nại cho bà. Một tháng sau bà khởi kiện là đúng theo quy định của pháp luật tại thời điểm bà bắt đầu đi khiếu nại… Cuối cùng, TAND quận 9 đã chấp nhận khiếu nại của bà Dung và thụ lý vụ kiện.

Nới rộng thời hiệu khởi kiện

Trước đây, việc khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính được thực hiện theo Luật Khiếu nại, tố cáo (cũ) và Pháp lệnh thủ tục giải quyết vụ án hành chính (cũ). Trước khi khởi kiện án hành chính, người dân bắt buộc phải thực hiện thủ tục khiếu nại (lần đầu).

Sau này, Luật Tố tụng hành chính 2010 và Luật Khiếu nại 2011 đã tách việc khiếu nại và khởi kiện án hành chính thành hai thủ tục độc lập. Người dân có thể lựa chọn con đường khiếu nại hoặc khởi kiện ngay từ khi nhận được hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính. Người dân cũng có thể khởi kiện sau khi đã khiếu nại nhưng phải tiến hành trong vòng một năm kể từ ngày nhận hoặc biết được quyết định hành chính, hành vi hành chính.

Đây là giai đoạn chuyển tiếp giữa các luật mới, luật cũ trong lĩnh vực khiếu kiện hành chính. Không phải ai cũng nắm được các quy định phức tạp về thời hiệu trong các văn bản pháp luật này. Việc quy định thời hiệu quá cứng nhắc đã tước mất quyền khởi kiện của người dân. Các nhà làm luật nên xem xét mở rộng thời hiệu khởi kiện vụ án hành chính cho những trường hợp đã thực hiện việc khiếu nại phù hợp với quy định của Luật khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi, bổ sung năm 2005) từ trước khi Luật Tố tụng hành chính có hiệu lực.

Luật sư NGUYỄN MẠNH HIẾNĐoàn Luật sư TP.HCM

HOÀNG YẾN

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)

LỖI PHỔ BIẾN KHI XỬ TRANH CHẤP THỪA KẾ

Nhiều tòa quên thứ tự ưu tiên thanh toán, không giải quyết công sức duy trì, bảo quản di sản.

Đây là một lỗi rất đáng tiếc bởi luôn dẫn đến việc kháng cáo, kháng nghị kéo dài, nhiều bản án sau đó đã bị cấp giám đốc thẩm hủy để giải quyết lại từ đầu…

Quên công sức giữ nhà 24 năm

Trước đây, ông Phạm Văn Trung (Việt kiều Úc) đã khởi kiện ông Phạm Văn Phụng (ngụ phường Phước Tiến, TP Nha Trang) ra TAND tỉnh Khánh Hòa để yêu cầu tòa chia di sản thừa kế là căn nhà 85 Huỳnh Thúc Kháng. Căn nhà này do vợ chồng ông Phụng quản lý, sử dụng từ năm 1979.

Xử sơ thẩm, TAND tỉnh Khánh Hòa đã chấp nhận yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Trung, xác định căn nhà (TP Nha Trang) là di sản thừa kế của cha các đương sự để lại. Từ đó, tòa phân chia di sản cho các đồng thừa kế theo quy định của pháp luật. Sau khi ông Phụng kháng cáo, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng đã giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Hai bản án này đã bị kháng nghị giám đốc thẩm vì cả hai cấp tòa sơ, phúc thẩm đều quên áp dụng Điều 683 BLDS về thứ tự ưu tiên thanh toán khi không xem xét đến công sức của ông Phụng trong việc trông coi, duy trì quản lý di sản thừa kế từ năm 1979 đến năm 2003.

Tháng 3-2011, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã họp phiên giám đốc thẩm, hủy cả hai bản án sơ, phúc thẩm, giao hồ sơ về cho TAND tỉnh Khánh Hòa xét xử lại.

Sau đó, giải quyết lại vụ kiện, TAND tỉnh Khánh Hòa đã khắc phục những sai sót mà quyết định giám đốc thẩm chỉ ra. Cụ thể: Sau khi người cha mất năm 1979, vợ chồng ông Phụng tiếp tục quản lý nhà đất đang tranh chấp, cúng giỗ cha mẹ, giữ gìn, bảo quản khối di sản. Do đó, trước khi chia di sản thừa kế, tòa đã trích 10% giá trị di sản để bù đắp công sức cho vợ chồng ông Phụng. Bản án này sau đó đã có hiệu lực pháp luật vì không có kháng nghị, kháng cáo.

May nhờ giám đốc thẩm nên không trắng tay

Vụ khác, bà Nguyễn Thị Lưới (Việt kiều Mỹ) khởi kiện bà Lê Thị Xanh ra TAND TP Nha Trang để đòi tài sản thừa kế là căn nhà nằm trên diện tích hơn 7.000 m2 đất tại xã Vĩnh Thạnh. Xử sơ thẩm, TAND tỉnh Khánh Hòa đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lưới, buộc bà Xanh phải giao trả toàn bộ nhà đất cho bà Lưới.

Bà Xanh kháng cáo. Xử phúc thẩm, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại Đà Nẵng cũng tuyên giữ nguyên bản án sơ thẩm.

Sau đó, theo yêu cầu của bà Lưới, Cục Thi hành án dân sự tỉnh Khánh Hòa đã tổ chức cưỡng chế thi hành án. Tuy nhiên, chánh án TAND Tối cao đã có quyết định kháng nghị giám đốc thẩm. Theo quyết định này, vợ chồng bà Lưới định cư ở nước ngoài từ tháng 3-1991. Trong khi đó, bà Xanh là người trực tiếp quản lý, sử dụng toàn bộ nhà đất tranh chấp, có công sức tôn tạo, bảo quản, duy trì, xây sửa lại nhà đất, có công chăm sóc phụng dưỡng người để lại di sản khi còn sống, lo mai táng khi người để lại di sản mất. Ngoài nhà đất đang tranh chấp này, mẹ con bà Xanh không còn chỗ ở nào khác. Thế nhưng hai cấp tòa sơ, phúc thẩm đã không xem xét trích cho mẹ con bà Xanh một phần tương xứng với công sức của họ bỏ ra, đồng thời không xem xét đến nhu cầu về nhà đất của mẹ con bà là không đúng…

Họp phiên giám đốc thẩm, Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao đã hủy cả hai bản án sơ, phúc thẩm, giao hồ sơ về cho TAND tỉnh Khánh Hòa giải quyết lại từ đầu. Đến tháng 3-2013, vụ kiện kéo dài này cuối cùng cũng đã kết thúc bằng quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự. Theo đó, bà Lưới đã đồng ý trích một phần diện tích đất tương xứng cho bà Xanh như phân tích của quyết định giám đốc thẩm.

Tương tự là vụ tranh chấp di sản gồm nhà đất số 118/19B và 118/24 Trần Quý Cáp (TP Nha Trang) giữa bà Nguyễn Thị Hoa với ông Phan Văn Hường. Tháng 6-2013, xử sơ thẩm, TAND TP Nha Trang đã quên xem xét giải quyết công sức bảo quản di sản của ông Hường. Ông Hường kháng cáo. Tại phiên phúc thẩm hồi đầu tháng 9 của TAND tỉnh Khánh Hòa, đại diện VKS và luật sư bảo vệ quyền lợi cho ông Hường đã đề nghị tòa hủy án sơ thẩm vì có nhiều vi phạm, trong đó có việc không xem xét công sức của bị đơn.

Theo tòa phúc thẩm, án sơ thẩm có thiếu sót về việc chưa thanh toán chi phí bảo quản di sản thừa kế trước khi chia di sản… như ý kiến của đại diện VKS và luật sư. Tuy nhiên, tòa phúc thẩm nhận định không nhất thiết phải hủy án vì thiếu sót này tòa có thể khắc phục. Từ đó, tòa phúc thẩm sửa án sơ thẩm, áp dụng Điều 683 BLDS, trích ra 10% giá trị tài sản thừa kế cho ông Hường.

Thứ tự ưu tiên thanh toán

Các nghĩa vụ tài sản và các khoản chi phí liên quan đến thừa kế được thanh toán theo thứ tự sau đây:

Chi phí hợp lý theo tập quán cho việc mai táng;

Tiền cấp dưỡng còn thiếu;

Tiền trợ cấp cho người sống nương nhờ;

Tiền công lao động;

Chi phí cho việc bảo quản di sản;

Các chi phí khác.

(Theo Điều 683 BLDS)

HỒNG HÀ

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)

TỪ 15-12, KHÔNG ĐƯỢC XỬ ÁN TREO TỘI PHẠM THAM NHŨNG

14/11/2013 12:17

(GMT + 7) TTO – Kể từ ngày 15-12-2013, Tòa án không được áp dụng án treo đối với các tội phạm về chức vụ, tham nhũng. Quy định về áp dụng án treo cũng được siết chặt hơn.  Phiên tòa xét xử vụ án tham nhũng của nguyên chủ tịch UBND huyện Hóc Môn TP.HCM, một trong những loại án mà TAND Tối cao lưu ý không được áp dụng án treo.

TAND Tối cao vừa ban hành nghị quyết số 01/2013 hướng dẫn áp dụng án treo trong xét xử, nêu rõ: không được xử phạt tù nhưng cho hưởng án treo đối với các tội phạm mà dư luận xã hội lên án, đặc biệt là các tội phạm về chức vụ, để phục vụ đắc lực cho công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung và phòng, chống tham nhũng nói riêng.

Bên cạnh đó, nghị quyết cũng nêu rõ các trường hợp khác cũng không được áp dụng án treo như: người phạm tội thuộc đối tượng cần phải nghiêm trị (người chủ mưu, cầm đầu, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội…), bị xét xử trong cùng một lần về nhiều tội, trong hồ sơ thể hiện là ngoài lần phạm tội và bị đưa ra xét xử, họ còn có hành vi phạm tội khác đã hoặc đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, khi được tại ngoại để chuẩn bị xét xử đã bỏ trốn phải truy nã.

Cũng theo hướng dẫn mới của Hội đồng thẩm phán, điều kiện để xử án treo cũng được “siết” chặt hơn. Ngoài điều kiện quy định là mức án phạt không quá 3 năm tù và không thuộc trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, Tòa chỉ được tuyên án treo nếu bị cáo có nhân thân tốt, ngoài lần phạm tội này họ luôn chấp hành tốt chính sách, pháp luật, chưa bị xử lý hành chính, kỉ luật; có nơi cư trú cụ thể rõ ràng; không có tình tiết tăng nặng và có ít nhất từ hai tình tiết giảm nhẹ trở lên; có khả năng cải tạo và nếu không bắt họ chấp hành hình phạt tù thì không gây ảnh hưởng xấu đến cuộc đấu tranh phóng chống tội phạm, đặc biệt là các tội phạm về tham nhũng.

Nghị quyết trên sẽ có hiệu lực từ 15-12-2013.

C.MAI

(Nguồn: Báo tuổi trẻ)

KHÔNG ĐƯỢC KÊ BIÊN TÀI SẢN LÀ NHÀ Ở DUY NHẤT

(PL)- Chính phủ vừa ban hành nghị định 166/2013/NĐ-CP quy định về việc cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính, có hiệu lực từ ngày 28-12.

Theo đó, nghị định bổ sung thêm hai loại tài sản không được kê biên, đó là nhà ở duy nhất của cá nhân và gia đình người bị cưỡng chế có diện tích tối thiểu theo quy định của pháp luật về cư trú và tài sản đang được cầm cố, thế chấp hợp pháp. Việc kê biên tài sản phải được thực hiện vào ban ngày, thời gian từ 8 giờ đến 17 giờ. Nếu người bị cưỡng chế cố tình vắng mặt thì vẫn tiến hành việc kê biên tài sản nhưng phải có đại diện chính quyền địa phương và người chứng kiến.

Cũng theo quy định mới, quyết định cưỡng chế sẽ được giao trực tiếp hoặc gửi qua bưu điện bằng hình thức bảo đảm và thông báo cho cá nhân, tổ chức bị cưỡng chế biết.

Đ.LIÊN

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)

KHÔNG LÀM ĐƯỢC CHỨNG MINH NHÂN DÂN VÌ TRANH CHẤP TÀI SẢN!

08/12/2013 02:12 (GMT + 7) TT – Một gia đình năm người bị người thân giấu mất sổ hộ khẩu chỉ vì đang tranh chấp tài sản. Hậu quả là người lớn không tìm được việc làm, còn anh Trần Quang Hiếu thì không thể làm chứng minh nhân dân (CMND) dù đã 17 tuổi – như câu chuyện anh kể dưới đây:

Từ lúc sinh ra, tôi sống cùng cha mẹ, hai chị, em gái tại căn nhà do ông nội tôi đứng tên trên đường Xô Viết Nghệ Tĩnh, P.25, Q.Bình Thạnh, TP.HCM. Mọi chuyện diễn ra bình thường cho tới ngày ông nội tôi qua đời, giữa ba tôi và các bác, các cô trong gia đình xảy ra tranh chấp quyền sở hữu căn nhà, quyền sử dụng đất của ông tôi. Điều khó khăn nhất cho gia đình tôi là hộ khẩu của cả gia đình gồm năm thành viên đều nằm chung trong sổ hộ khẩu do cô tôi là Trần Thị Tuyết đứng tên chủ hộ, hiện cô tôi đã chuyển hộ khẩu theo nhà chồng, sổ hộ khẩu hiện nay do bác tôi là Trần Quang Tích quản lý.

Từ khi xảy ra mâu thuẫn, bác tôi không đưa sổ hộ khẩu cho gia đình tôi sử dụng, khiến cả gia đình gặp rất nhiều khó khăn trong sinh hoạt. Cha mẹ tôi đi mua một miếng đất nhỏ để cất nhà ở riêng, đặt cọc mấy chục triệu đồng nhưng sau không có hộ khẩu để làm hợp đồng mua bán có chứng thực đành chịu mất tiền cọc. Cha tôi làm tài xế, vừa nghỉ việc để chuyển qua công ty khác, khi được nhận lại không có hồ sơ có chứng thực của địa phương nên chưa thể đi làm. Mẹ tôi cũng không làm được hồ sơ xin việc vì không có hộ khẩu.

Bản thân tôi bây giờ đã 17 tuổi nhưng không thể làm được CMND, vì bác tôi nhất quyết không cho mượn sổ hộ khẩu. Suốt hơn ba năm qua, vì không có CMND, tôi không dám đi đêm, đi học buổi tối thì cha hoặc mẹ phải đưa đi đón về, vì sợ đi đường bị công an kiểm tra, không có CMND sẽ bị phạt, bị giữ.

Cha mẹ tôi đã nhiều lần làm đơn cầu cứu gửi Công an phường, Công an quận nhưng lần nào cũng chỉ nhận được lời hẹn, họ thông báo mời bác tôi tới làm việc nhưng bác tôi không tới. Tôi không biết việc cha mẹ tôi và các bác tranh chấp như thế nào, nhưng giờ tôi đã 17 tuổi, tôi cần chứng minh được mình là ai, tôi muốn được đi học như các bạn. Nếu bác tôi cứ giữ quan điểm không cho tôi dùng sổ hộ khẩu để làm các thủ tục cần thiết, cả đời tôi không được thừa nhận là công dân hay sao?

TRẦN QUANG HIẾU (Gia Minh ghi)

Thiếu tá TRẦN THẾ DÂN (phó trưởng Công an P.25, Q.Bình Thạnh, TP.HCM):

Sổ hộ khẩu không liên quan tới tài sản tranh chấp

Sổ hộ khẩu của gia đình anh Hiếu do bà Trần Thị Tuyết đứng tên chủ hộ, nhưng bà Tuyết đã chuyển hộ khẩu đi nơi khác từ lâu. Hiện sổ hộ khẩu do ông Tích giữ là sổ loại cũ, màu xanh, có 9 số, trong khi Q.Bình Thạnh đã đổi sang sổ mới, màu đỏ, có 11 số. Ông Tích không đồng ý cho gia đình anh Hiếu sử dụng sổ hộ khẩu này vì theo ông Tích, khi cha ông còn sống đã cho gia đình anh Hiếu một căn nhà khác, sau khi làm ăn thua lỗ, cha mẹ của anh Hiếu đã bán nhà rồi quay lại nhà cũ sống, đòi chia tài sản.

Trong trường hợp ông Tích đưa sổ hộ khẩu cho gia đình anh Hiếu sử dụng, công an cũng chưa thể cấp CMND cho anh Hiếu được, mà phải đổi sổ hộ khẩu mới xong mới có thể làm CMND. Cái khó là để đổi sổ hộ khẩu trong trường hợp này, các thành viên trên 18 tuổi có trong hộ khẩu phải ký giấy ủy quyền cho một người khác đứng tên chủ hộ, mà gia đình này đang tranh chấp, không chịu đưa sổ hộ khẩu ra thì làm sao thỏa thuận, chọn được chủ hộ để đứng tên sổ hộ khẩu mới. Vì những lý do phức tạp như vậy, chúng tôi đang mời ông Tích tới làm việc, sẽ mời cả bà Tuyết – người đứng tên chủ hộ cũ và ông Trần Quang Lộc – cha của anh Hiếu – tới để bàn hướng giải quyết. Theo đó, có thể chúng tôi sẽ đề xuất lãnh đạo Công an quận cấp hai sổ hộ khẩu mới cho hai hộ ông Tích và ông Lộc để tiện việc quản lý cũng như sinh hoạt của hai gia đình. Chúng tôi cũng sẽ giải thích cho các gia đình hiểu sổ hộ khẩu không liên quan tới tài sản tranh chấp để họ giảm bớt căng thẳng với nhau.

Thượng tá CAO VĂN ĐEN (phó trưởng Phòng cảnh sát quản lý hành chính về trật tự an toàn xã hội Công an TP.HCM):

Không giao nộp sổ hộ khẩu sẽ bị xử phạt

Trường hợp của gia đình anh Hiếu, cha mẹ anh cần làm đơn đề nghị được tách hộ khẩu riêng gửi Công an quận để giải quyết, căn cứ vào điều 27 Luật cư trú. Theo quy định, sau khi nhận đơn, Công an quận phải có trách nhiệm mời hai anh em ông Tích tới để giải thích việc phải nộp sổ hộ khẩu cũ, xác định lại chủ hộ khẩu mới là ai. Trong thời hạn nhất định, nếu ông Tích không chấp hành việc có mặt theo giấy mời và giao nộp sổ hộ khẩu cũ, Công an Q.Bình Thạnh sẽ ra quyết định xử phạt về hành vi “không chấp hành việc kiểm tra hộ khẩu, kiểm tra tạm trú, kiểm tra lưu trú hoặc không xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, giấy tờ khác liên quan đến cư trú khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu kiểm tra”, theo quy định tại điều 11 nghị định 73 NĐCP/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh trật tự, an toàn xã hội. Sau khi ra quyết định xử phạt, Công an Q.Bình Thạnh sẽ thực hiện các thủ tục để tách sổ hộ khẩu cho cha mẹ anh Hiếu và thông báo cho các bên liên quan biết theo quy định.

Việc tranh chấp tài sản là căn nhà do cha mẹ ông Tích để lại là tranh chấp dân sự, hoàn toàn không liên quan tới việc xử lý các vấn đề liên quan tới sổ hộ khẩu. Theo quy định, người có tên trong sổ hộ khẩu hay không không liên quan tới việc hưởng thừa kế tài sản theo luật định, vì vậy người dân nói chung và gia đình ông Tích nói riêng không nên gán ghép hai việc vào với nhau, dễ dẫn tới bất hòa, căng thẳng không cần thiết trong gia đình mà bị phạt thêm vì các lỗi liên quan tới hành vi vi phạm về an ninh trật tự.

G.MINH ghi

Nguồn: Báo tuổi trẻ