DỰ ÁN LUẬT CƯ TRÚ – BỔ SUNG, ĐIỀU CHỈNH ĐIỀU KIỆN NHẬP CƯ

Thứ bảy, 08/06/2013, 17:27 (GMT+7)

* Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc: Báo chí sẽ được chứng kiến ngay từ lúc tiến hành bỏ phiếu

Tổng kết phiên thảo luận tại hội trường sáng 8-6 về dự án Luật Cư trú, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu cho biết, đã có 16 vị đại biểu Quốc hội (ĐBQH) phát biểu ý kiến tại hội trường. Các vị ĐBQH đều tán thành sự cần thiết sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cư trú nhằm bảo đảm quyền tự do cư trú của công dân, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về cư trú phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội, an ninh trật tự của nước ta.

Điều kiện nhập cư chặt chẽ hơn

Phát biểu tại phiên họp, nhiều ý kiến ĐBQH tán thành việc bổ sung một số hành vi cấm giả mạo các điều kiện, đồng thời giao cho HĐND cấp tỉnh quy định diện tích ở tối thiểu để được nhập cư vào nội đô các đô thị lớn. ĐB Huỳnh Văn Tính (Tiền Giang) nói: “Tôi rất đồng ý với quy định này, bởi đã từng có trường hợp chủ nhà ở có diện tích 20m2 bảo lãnh cho… 25 người nhập hộ khẩu”.

ĐB Touneh Drong Minh Thắm (Lâm Đồng) đồng ý hạn chế nhập cư vào thành phố lớn bằng những điều kiện chặt chẽ hơn, nhưng chỉ ở khu vực nội thành. “Trách nhiệm xác nhận diện tích nhà ở của người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ để làm thủ tục cho đăng ký thường trú là của ai? Kinh phí ở đâu? Dự luật cần làm rõ điều này”, bà Thắm nêu vấn đề.

Lưu ý đến tình trạng gia tăng số vụ bóc lột lao động, xâm hại trẻ em trong thời gian gần đây, ĐB Ngô Thị Minh (Quảng Ninh) đề nghị bổ sung điều khoản yêu cầu có văn bản chấp thuận của người giám hộ hoặc giấy tờ chứng minh quan hệ gia đình khi làm thủ tục đăng ký tạm trú cho trẻ em dưới 16 tuổi. Có cùng nỗi lo lắng này, ĐB Đỗ Văn Đương (TPHCM) khuyến nghị: “Phải cân nhắc để hạ thấp độ tuổi phải thông báo lưu trú xuống, đừng quy định cứng là 14 tuổi”.

Trong khi đó, dẫn chứng những vướng mắc đang xảy ra trong quá trình giải quyết các vụ án hình sự, dân sự mà nguyên nhân là công tác quản lý dân cư không chặt chẽ, ĐB Huỳnh Ngọc Ánh (TPHCM) nói, ông hoàn toàn ủng hộ việc đảm bảo quyền của công dân là được tự do cư trú, nhưng công dân đi đâu, đến đâu thì cũng phải đăng ký. Ngược lại, cơ quan tiếp quản tạm trú đó có trách nhiệm thông báo cho cơ quan quản lý trước đây và việc này phải ghi vào trong luật để thống nhất thực hiện.

Về thời hạn thực hiện thủ tục thay đổi nơi đăng ký thường trú, đa số ý kiến ĐBQH tán thành quy định tại dự thảo là 12 tháng (rút ngắn còn một nửa thời gian so với hiện hành), song cũng có một vài vị đại biểu QH đề nghị nên làm kịp thời hơn, chỉ còn 6 tháng…

Buổi chiều, Quốc hội thảo luận tại tổ về dự án Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng và dự án Luật Việc làm.

Thông qua các ngày hội việc làm, nhiều thanh niên đã kiếm được việc làm ổn định. Ảnh: THÁI BẰNG

Hỗ trợ người lao động thiết thực, cụ thể

Về dự án Luật Việc làm, luật này mới trình để Quốc hội cho ý kiến lần đầu tiên, vì thế các đại biểu Quốc hội (ĐBQH) cho rằng cần phải có thời gian hoàn thiện thêm. Nhiều ĐB cũng cho rằng, dự thảo Luật Việc làm cần quy định rõ Nhà nước đảm bảo quyền và lợi ích của người lao động (NLĐ), quy trách nhiệm của người sử dụng lao động.

Theo ĐB Đỗ Mạnh Hùng (Thái Nguyên), hiện nay có tình trạng NLĐ phải làm việc rất vất vả đến nỗi như bị bóc lột sức lao động nhưng bị người sử dụng lao động nợ lương trong thời gian dài, không trả lương hoặc nếu có trả lương thì cũng không đúng với công sức của NLĐ. “Dự thảo Luật Việc làm cần quy định rõ trách nhiệm sử dụng và bảo đảm quyền lợi cho NLĐ. Việc trả tiền lương phải xứng đáng với công việc của NLĐ”, ĐB Hùng bày tỏ quan điểm.

Đồng ý với quan điểm trên, ĐB Nguyễn Mạnh Cường (Quảng Bình) cho rằng, dự thảo Luật Việc làm cần quy định rõ tổ chức, doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo đảm quyền lợi của NLĐ nếu trong thời gian làm việc, lao động đó gặp tai nạn hoặc gặp sự cố trong công việc dẫn đến ảnh hưởng lớn về sức khỏe.

Ngoài ra, để bảo vệ NLĐ, ĐB Trương Thị Huệ (Thái Nguyên) nêu ý kiến, trong dự thảo Luật Việc làm cần kiểm soát hoạt động của các trung tâm giới thiệu, tư vấn việc làm cho NLĐ. Bởi có nhiều trung tâm mở ra với hình thức yêu cầu người tìm việc đóng tiền giới thiệu ban đầu nhưng sau đó lại không giới thiệu hoặc tìm việc cho NLĐ. Như vậy, người tìm việc rơi vào tình trạng “tiền mất, tật mang”.

ĐB Đỗ Văn Đương (TPHCM) cho rằng, đây là luật mới nên quan điểm làm luật là rất quan trọng. Trong bối cảnh hiện nay, dù chúng ta xây dựng CNH-HĐH nhưng trình độ lao động thấp, tay nghề thấp, sức cạnh tranh khi xuất khẩu lao động là rất kém vì chủ yếu là lao động phổ thông. Mặt khác, khi chuyển đổi mục đích sử dụng đất đai, nhiều lao động thanh niên mất đất sản xuất, họ làm gì, hỗ trợ đào tạo nghề họ như thế nào? Luật cần phải chỉ rõ những giải pháp để hỗ trợ chứ không chỉ nói hỗ trợ chung chung.

ĐB Lê Đông Phong (TPHCM) băn khoăn, lao động nông thôn thường gắn với công việc thời vụ, vậy thời gian nông nhàn thì có gọi là thời gian thất nghiệp hay không? Ngoài ra, cần hỗ trợ để lao động ở nông thôn gắn với việc làm ở nông thôn, để họ đỡ phải ra thành thị tìm việc làm. Chung quan điểm, ĐB Nguyễn Mạnh Cường cũng nói, cần nói rõ về bảo hiểm thất nghiệp cho người dân gồm những nội dung gì và bảo hiểm thất nghiệp được sử dụng cho lao động đang làm việc nhưng bị tai nạn như thế nào. Việc sử dụng quỹ nên tập trung vào trợ cấp thất nghiệp và tìm kiếm việc làm.

Nên tăng khen thưởng dân

Về Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi đua, khen thưởng, ĐB Lê Trọng Sang (TPHCM) rất tán thành quan điểm khen thưởng mọi tổ chức, cá nhân, không phân biệt nhà nước – tư nhân. Tuy nhiên, ĐB Sang cũng cho rằng phải khắc phục tình trạng thi đua, khen thưởng kiểu “đến hẹn lại lên”; hình thức. “Cần thiết khen thưởng kịp thời các cá nhân, người dân có thành tích nổi bật trong cuộc sống, như thế mới động viên kịp thời sự đóng góp của mọi cá nhân trong xã hội, ví dụ như một anh xe ôm dũng cảm bắt cướp chẳng hạn”, ĐB Sang nhấn mạnh.

ĐB Huỳnh Ngọc Ánh (TPHCM)

ĐB Huỳnh Ngọc Ánh (TPHCM) cũng tán thành ý kiến của ĐB Lê Trọng Sang khi phát biểu, thi đua, khen thưởng không nên đến hẹn lại lên, xếp hàng để lấy danh hiệu. Cần khen thưởng kịp thời những tổ chức, cá nhân có thành tích xuất sắc, nổi bật, ví dụ như tấm gương em Nguyễn Văn Nam (Nghệ An) vừa qua đã hy sinh bản thân để cứu sống 4 em nhỏ.

Còn ĐB Ngô Ngọc Bình (TPHCM) thì băn khoăn, thi đua là phong trào của quần chúng nhưng hiện nay khen thưởng chủ yếu là cán bộ. “Vì thế, sự cống hiến của những người trực tiếp làm ra sản phẩm phục vụ xã hội sẽ không được thúc đẩy. Đó là mâu thuẫn phải sửa được khi sửa luật lần này. Cần tập trung khen thưởng cho người lao động trực tiếp, giảm khen thưởng ở cấp nhà nước”, ĐB Bình đề xuất. ĐB Lê Đông Phong (TPHCM) thì cho rằng các quy định, thủ tục, quy trình để khen thưởng không nên máy móc, hình thức.

ANH THƯ – LÂM NGUYÊN

****

Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội Nguyễn Hạnh Phúc: Báo chí sẽ được chứng kiến ngay từ lúc tiến hành bỏ phiếu

Bên lề kỳ họp Quốc hội sáng 8-6, ông Nguyễn Hạnh Phúc, Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội đã trả lời phỏng vấn báo chí về công tác chuẩn bị cho việc tiến hành lấy phiếu tin nhiệm đối với các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Thông tin về nội dung các phiên chất vấn thành viên Chính phủ cũng đã được Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cung cấp.

Chủ nhiệm Văn phòng Quốc hội cho biết, đến thời điểm này, công tác chuẩn bị lấy phiếu tín nhiệm cơ bản đã hoàn tất, báo cáo công tác của các chức danh trong diện được lấy phiếu đã gửi đến các vị ĐBQH, việc thiết kế mẫu phiếu, danh sách ban kiểm phiếu, các báo cáo liên quan đã được chuẩn bị. “Đây là lần đầu tiên sau 69 năm Quốc hội mới tiến hành lấy phiếu tín nhiệm, chắc chắn sẽ phải rút kinh nghiệm dần dần, lần sau chắc sẽ tốt hơn”, ông Nguyễn Hạnh Phúc nói.

Dù ý kiến cử tri (được tập hợp qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, theo nguyên tắc phải gửi đến 20 ngày trước khi bỏ phiếu) được coi là một kênh thông tin sẽ được các vị ĐBQH xem xét, cân nhắc khi bỏ phiếu, nhưng cho đến thời điểm sáng 8-6, không có ý kiến nào của cử tri liên quan đến vấn đề này.

* PV: Dư luận có e ngại về tình trạng “vận động tín nhiệm”. Liệu điều đó có thể xảy ra không, nếu có thì biện pháp xử lý thế nào, thưa ông?

ÔNG NGUYỄN HẠNH PHÚC: Tôi cũng chưa nhận được bất kỳ một ý kiến nào góp ý hay phản ánh gì với Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc này. Là người sẽ được đánh giá tín nhiệm và cũng sẽ tiến hành đánh giá tín nhiệm các chức danh khác, tôi cho rằng ai làm thế sẽ tự đánh mất uy tín của chính mình. Người đánh giá tín nhiệm là các ĐBQH, đại diện của nhân dân, cầm lá phiếu họ sẽ phải suy nghĩ, thể hiện trách nhiệm cao nhất của mình.

* Liệu tác động của việc chuẩn bị lấy phiếu tín nhiệm có khiến cho không khí tranh luận tại nghị trường trở nên e dè hơn?

* Tôi không nghĩ vậy. Cá nhân tôi cho rằng mỗi vị ĐBQH nói chung và các chức danh được lấy phiếu đều có quyền hỏi và trả lời. Hỏi đúng thì người ta trả lời theo thẩm quyền, theo nhận định của họ. Không có chuyện vì việc này việc kia.

* Nhiều vị ĐBQH cho rằng việc tiến hành lấy phiếu tín nhiệm trước khi trả lời chất vấn là quy trình “ngược”, ông nghĩ sao?

*Việc đó đã được bàn rồi. Tiến hành lấy phiếu trước là để đảm bảo sự công bằng. Vì kỳ này chỉ 4 bộ trưởng, thành viên Chính phủ trả lời, còn các bộ trưởng đã trả lời các kỳ trước hay chưa lần nào trả lời chất vấn thì sao?

* Quy trình tiến hành và việc công bố kết quả sẽ diễn ra thế nào?

*Quy trình thì đương nhiên là công khai, báo chí sẽ được chứng kiến ngay từ lúc tiến hành bỏ phiếu cho đến khi công bố kết quả. Kết quả sẽ được công bố theo ba mức độ: tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp, cụ thể từng phiếu, từng loại, có thế nào thì ghi như thế. Ví dụ ông A được bao nhiêu phiếu tín nhiệm cao, tín nhiệm và tín nhiệm thấp thì cứ công bố con số tuyệt đối. Còn nếu kết quả thấp dưới 50% qua hai lần lấy phiếu tín nhiệm thì tiến hành bỏ phiếu tín nhiệm, việc này đã được quy định rõ trong Nghị quyết của QH.

*Ông có thể chia sẻ với tư cách cá nhân về công việc chuẩn bị đánh giá tín nhiệm? Tiêu chí gì theo ông là quan trọng nhất khi đánh giá mức độ tín nhiệm?

* Qua tiếp xúc cử tri, tôi đã ghi nhận nhiều tâm tư nguyện vọng của người dân; nghiên cứu rất kỹ báo cáo của các thành viên Chính phủ, các chức danh được lấy phiếu. Tôi cũng đã theo dõi tình hình kinh tế xã hội và các phiên thảo luận vừa qua của QH và suy nghĩ xem lĩnh vực nào, ngành gì mà tư lệnh ngành đó đã hoàn thành tốt nhiệm vụ. Theo tôi, tiêu chí đầu tiên để đánh giá tư lệnh một ngành là hoàn thành nhiệm vụ; mặc dù phẩm chất đạo đức cũng phải song song.

* Ông có lo ngại do nể nang mà kết quả việc lấy phiếu sẽ là “hòa cả làng” hay không?

*Tôi không lo ngại như thế. Cái chính là đánh giá kết quả chính xác chứ không phải cứ ra kết quả nhiều người thấp mới là tốt, là khách quan.

* Cảm ơn ông.

ANH THƯ ghi

(Nguồn: Báo Sài Gòn Giải Phóng)

THU NHẬP 9 TRIỆU ĐỒNG/THÁNG MỚI NỘP THUẾ

29/06/2013 – 05:08

Trong tháng 7-2013, nhiều văn bản pháp luật quan trọng sẽ có hiệu lực. Pháp Luật TP.HCM giới thiệu một số nội dung đáng lưu ý.


Từ 1-7, người làm công ăn lương có thu nhập dưới 9 triệu đồng /tháng không phải đóng TTNCN. Ảnh: HTD

Nâng mức giảm trừ đối với người phụ thuộc

Theo Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân, từ 1-7, mức giảm trừ gia cảnh đối với người nộp thuế thu nhập cá nhân là 9 triệu đồng/tháng (mức cũ là 4 triệu đồng/tháng) và mức giảm trừ đối với mỗi người phụ thuộc là 3,6 triệu đồng/tháng (mức cũ là 1,6 triệu đồng/tháng). Khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) biến động trên 20% so với thời điểm 1-7-2012 hoặc thời điểm điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh gần nhất thì mức giảm trừ gia cảnh sẽ được điều chỉnh cho phù hợp.

Tăng mức xử phạt tối thiểu và tối đa

Luật Xử lý vi phạm hành chính quy định: Từ 1-7, mức phạt tiền tối thiểu về vi phạm hành chính được điều chỉnh từ 10.000 đồng lên 50.000 đồng; mức phạt tối đa tăng từ 500.000 đồng lên 1 tỉ đồng đối với cá nhân và được điều chỉnh lên 2 tỉ đồng đối với tổ chức. Trường hợp xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền dưới 250.000 đồng đối với cá nhân, 500.000 đồng đối với tổ chức thì người có thẩm quyền xử phạt không cần lập biên bản vi phạm và phải ra quyết định xử phạt ngay tại chỗ.

Hồ sơ nhà, đất được bảo quản vĩnh viễn

Đó là các hồ sơ, tài liệu sau đây: hồ sơ, tài liệu về giao đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất, cho thuê, cho thuê lại đất; bản lưu giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; hồ sơ, tài liệu về cấp mới, cấp đổi, cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu nhà ở; hồ sơ, tài liệu về đăng ký nhận quyền sử dụng đất; sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; sổ địa chính.

Riêng hồ sơ, tài liệu về đăng ký cho thuê tài sản gắn liền với đất; xóa đăng ký cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất có thời hạn bảo quản là 20 năm kể từ khi hợp đồng thuê đất hết thời hạn. Hồ sơ, tài liệu về đăng ký cho thuê, cho thuê lại quyền sử dụng đất có thời hạn là 15 năm kể từ khi hợp đồng thuê hết thời hạn.

Thông tư 11 ngày 28-5 của Bộ TN&MT đã quy định như trên.

Phạm nhân được xét giảm án nhiều lần

Từ ngày 1-7, phạm nhân sẽ được xem xét giảm thời hạn chấp hành án phạt tù nếu đã chấp hành được ít nhất 1/3 thời hạn đối với hình phạt tù từ 30 năm trở xuống hoặc 12 năm đối với tù chung thân; chấp hành tốt nội quy trại giam, tích cực học tập, lao động cải tạo; đủ kỳ xếp loại chấp hành án phạt tù từ khá trở lên theo quy định. Mỗi phạm nhân có thể được xét giảm nhiều lần nhưng phải bảo đảm thời hạn thực tế chấp hành án phạt tù được một nửa mức án có thời hạn đã tuyên hoặc 20 năm đối với hình phạt tù chung thân. (Theo Thông tư liên tịch 02 ngày 15-5 của Bộ Công an, Bộ Quốc phòng, TAND Tối cao, VKSND Tối cao).

Tăng thời gian đào tạo luật sư lên 12 tháng

Cũng từ ngày 1-7, thời gian của khóa đào tạo nghề luật sư sẽ là 12 tháng, tăng gấp đôi so với quy định luật hiện hành là sáu tháng; rút ngắn thời gian tập sự hành nghề luật sư xuống còn 12 tháng so với 18 tháng theo quy định hiện hành.

Ngoài những trường hợp bị thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư theo quy định cũ (không đủ tiêu chuẩn luật sư; không còn cư trú ở Việt Nam hay được tuyển dụng, bổ nhiệm làm cán bộ, công chức, viên chức…), Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Luật sư bổ sung một số trường hợp bị thu hồi chứng chỉ hành nghề luật sư. Gồm có: không gia nhập đoàn luật sư nào trong thời hạn hai năm kể từ ngày được cấp chứng chỉ; không thành lập, tham gia thành lập hoặc làm việc theo hợp đồng lao động cho tổ chức hành nghề luật sư hoặc đăng ký hành nghề trong thời hạn ba năm kể từ ngày gia nhập đoàn luật sư.

Không giải quyết các tố cáo tham nhũng nặc danh

Công dân thực hiện tố cáo tham nhũng có thể tố cáo trực tiếp, gửi đơn, tố cáo qua điện thoại hoặc qua mạng thông tin điện tử. Người tố cáo tham nhũng phải nêu rõ họ tên, địa chỉ, nội dung tố cáo. Những tố cáo mạo tên, nội dung không rõ ràng, tố cáo đã được giải quyết nay tố cáo lại thì không được xem xét, giải quyết. Cơ quan có thẩm quyền giải quyết tố cáo là cơ quan công an và cơ quan thanh tra nhà nước.

Đây là một trong những nội dung đáng lưu ý của Nghị định 59 ngày 17-6 của Chính phủ.

Cá nhân không được nhân danh cơ quan để phát ngôn

Theo Quyết định 25 ngày 4-5 của Thủ tướng Chính phủ, người phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí của các cơ quan hành chính nhà nước phải là người đứng đầu cơ quan hoặc người được giao nhiệm vụ phát ngôn hoặc người được ủy quyền. Các cá nhân của cơ quan hành chính nhà nước cũng được cung cấp thông tin cho báo chí theo quy định pháp luật nhưng không được nhân danh cơ quan hành chính nhà nước để phát ngôn, cung cấp thông tin cho báo chí; không được tiết lộ bí mật điều tra, bí mật công vụ, thông tin sai sự thật; trung thực khi cung cấp thông tin cho báo chí và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội dung đã cung cấp.

Cổng thông tin điện tử Chính phủ sẽ là nơi cung cấp kịp thời, chính xác các thông tin chính thống về các hoạt động của cơ quan hành chính nhà nước cho các cơ quan báo chí trong cả nước.

Thêm nhiều dịch vụ không phải chịu thuế GTGT

Theo Thông tư 65 ngày 17-5 của Bộ Tài chính, từ ngày 1-7, có thêm một số loại hình kinh doanh, dịch vụ không phải chịu thuế GTGT hoặc được áp mức thuế suất 0%. Đó là: dịch vụ cấp tín dụng của các tổ chức; các khoản thu về bồi thường, tiền thưởng, tiền hỗ trợ nhận được, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác (bao gồm cả khoản lãi cho vay do doanh nghiệp không phải tổ chức tín dụng nhận được); dịch vụ số hóa cung ứng tại Việt Nam cho tổ chức, cá nhân ở nước ngoài; dịch vụ cho doanh nghiệp trong khu chế xuất thuê xưởng.

ĐẶNG LIÊN giới thiệu

(Nguồn: Báo pháp luật)

TÒA THỤ LÝ NHẦM?

02/07/2013 – 06:20

Việc một tòa án thụ lý yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu thành vụ án dân sự với đầy đủ hai bên nguyên, bị đơn đã phát sinh nhiều tranh cãi. Hậu quả pháp lý giữa việc tòa nhầm việc dân sự với vụ án dân sự khác nhau ra sao?

Ngày 21-12-2012, TAND TP Nha Trang đã thông báo thụ lý vụ tranh chấp liên quan đến yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu giữa ông H. (nguyên đơn) và ông N. (bị đơn).

Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu

Theo hồ sơ khởi kiện của ông H., trước đây ông N. có vay tiền của ông nhưng không trả. Đầu năm 2009, ông H. từng khởi kiện ông N. tại TAND TP Nha Trang. Trong quá trình tòa giải quyết, ông và ông N. thỏa thuận được với nhau nên tháng 1-2009, tòa đã ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự, nội dung là ông N. đồng ý trả nợ cho ông H. 454 triệu đồng.

Sau khi quyết định trên có hiệu lực pháp luật, ông H. yêu cầu thi hành án nhưng ông N. không chịu trả nợ. Cơ quan thi hành án dân sự xác minh thì được biết vào tháng 12-2008 (một tháng trước khi tòa ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên đương sự), ông N. đã lập văn bản thỏa thuận phân chia tài sản thừa kế của cha để lại. Văn bản này được công chứng tại Phòng Công chứng số 1 của tỉnh Khánh Hòa.

Cho rằng văn bản phân chia tài sản thừa kế có công chứng mà ông N. lập ảnh hưởng đến quyền lợi của mình, ông H. đã khởi kiện yêu cầu TAND TP Nha Trang tuyên bố văn bản này vô hiệu.

Là việc dân sự

Cho đến nay vụ kiện này vẫn chưa được giải quyết dứt điểm do các bên đương sự không hợp tác, mặt khác cũng có nhiều ý kiến khác nhau về việc tòa có nhầm lẫn hay không khi thụ lý thành vụ án dân sự.

Ở vụ việc nói trên, quan hệ tranh chấp về hợp đồng vay tiền giữa ông H. và ông N. đã được giải quyết bằng một quyết định có hiệu lực từ tháng 1-2009 của tòa án. Vì vậy, quyền lợi của ông H. được giải quyết theo thủ tục thi hành án. Trong trường hợp có căn cứ cho rằng ông N. có giao dịch dân sự và công chứng trái pháp luật gây thiệt hại đến quyền và lợi ích của mình thì ông H. có quyền yêu cầu tòa tuyên bố văn bản công chứng đó vô hiệu.

Theo khoản 6 Điều 26 BLTTDS năm 2004 (được sửa đổi, bổ sung năm 2011), yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu là việc dân sự (không có tranh chấp, không có bị đơn). Do đó, TAND TP Nha Trang đã làm nhiều người ngạc nhiên khi thụ lý thành vụ án dân sự (có tranh chấp với đầy đủ hai bên nguyên, bị).

Hậu quả pháp lý ra sao?

Theo TS Nguyễn Văn Tiến (giảng viên khoa Luật dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM), hậu quả pháp lý giữa việc tòa thụ lý, giải quyết việc dân sự và thụ lý, giải quyết vụ án dân sự là hoàn toàn khác nhau. Sự khác nhau đó biểu hiện ở các điểm cơ bản sau:

Thứ nhất, nếu là việc dân sự thì thời gian giải quyết của tòa sẽ nhanh hơn rất nhiều so với vụ án dân sự. Thứ hai, nếu là việc dân sự thì thủ tục sẽ đơn giản, gọn nhẹ hơn rất nhiều so với vụ án dân sự (không phải qua khâu hòa giải, không phải mở phiên tòa…). Thứ ba, việc tòa thụ lý nhầm làm biến đổi bản chất vụ việc, biến chuyện đơn giản thành phức tạp, biến cái không tranh chấp thành cái có tranh chấp, tạo ra xung đột trong xã hội. Chưa kể, nếu là việc dân sự thì đương sự chỉ phải đóng lệ phí cố định 200.000 đồng, còn là vụ án thì phải đóng án phí theo % giá trị tranh chấp.

Nói chung, theo TS Tiến, nếu tòa thụ lý nhầm việc dân sự thành vụ án dân sự thì các đương sự sẽ phải gánh chịu nhiều thiệt hại cả về thời gian, công sức lẫn tiền bạc.

Phân biệt ra sao?

Dấu hiệu pháp lý cơ bản nhất để phân biệt việc dân sự với vụ án dân sự là yếu tố có tranh chấp hay không.

Cụ thể, việc dân sự là việc cá nhân, cơ quan tổ chức không có tranh chấp nhưng có yêu cầu tòa án công nhận hoặc không công nhận một sự kiện pháp lý nào đó (cơ sở pháp lý là các điều 26, 28, 30, 32 và 311 BLTTDS). Ví dụ như yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, yêu cầu tuyên bố một người mất tích…

Còn vụ án dân sự là các tranh chấp xảy ra giữa các đương sự mà theo quy định của BLTTDS thì cá nhân, cơ quan, tổ chức tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án tại tòa án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (cơ sở pháp lý là các điều 25, 27, 29 và 31 BLTTDS). Ví dụ các tranh chấp về quyền sở hữu tài sản, tranh chấp về hợp đồng dân sự…

H.HÀ – T.TÙNG

(Nguồn: Báo pháp luật Tp.HCM)

ĐÒI LẠI TÀI SẢN, KIỆN LÚC NÀO CŨNG ĐƯỢC!

Ngày 22-7, Trường Cán bộ Tòa án phối hợp với TAND TP.HCM tập huấn cho thẩm phán, hội thẩm nhân dân về năm nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn thi hành BLTTDS năm 2011 với nhiều nội dung đáng quan tâm.

Theo ông Nguyễn Thanh Mận (Phó Hiệu trưởng Trường Cán bộ Tòa án), việc TAND Tối cao ban hành một loạt năm nghị quyết hướng dẫn thi hành BLTTDS sửa đổi, bổ sung năm 2011 (các nghị quyết cùng có hiệu lực từ 1-7-2013) sẽ đảm bảo cho các cơ quan tố tụng áp dụng pháp luật thống nhất, không còn lúng túng như trước nữa.

Các trường hợp không áp dụng thời hiệu khởi kiện

Để làm rõ hơn về thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự, Nghị quyết 03 ngày 3-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn như sau: Các tranh chấp dân sự mà văn bản quy phạm pháp luật có quy định về thời hiệu khởi kiện thì áp dụng thời hiệu được quy định trong văn bản quy phạm pháp luật đó.

Chẳng hạn, đối với tranh chấp về hợp đồng kinh doanh bảo hiểm thì thời hiệu khởi kiện là ba năm kể từ thời điểm phát sinh tranh chấp (Điều 30 Luật Kinh doanh bảo hiểm). Đối với các tranh chấp lao động cá nhân thì thời hiệu khởi kiện là một năm kể từ ngày phát hiện ra hành vi mà mỗi bên tranh chấp cho rằng quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị vi phạm (Điều 202 Bộ luật Lao động)…

Cạnh đó, Nghị quyết 03 đưa ra một hướng dẫn rất mới về các tranh chấp dân sự không áp dụng thời hiệu khởi kiện: Một là tranh chấp về quyền sở hữu tài sản. Hai là tranh chấp về đòi lại tài sản do người khác đang quản lý, chiếm hữu. Ba là tranh chấp về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai.

Ví dụ: Tháng 1-2008, ông A cho ông B vay 500 triệu đồng, thời hạn vay là một năm. Đến hạn, ông B không trả nợ. Tháng 4-2011, ông A khởi kiện yêu cầu tòa buộc ông B trả lại cả khoản tiền gốc lẫn tiền lãi.

Nếu như trước kia, đơn khởi kiện của ông A sẽ bị tòa từ chối thụ lý vì đã hết thời hiệu khởi kiện thì nay theo hướng dẫn mới, tòa sẽ chỉ từ chối thụ lý, giải quyết yêu cầu đòi khoản tiền lãi của ông A. Riêng với yêu cầu đòi khoản tiền gốc (tranh chấp đòi lại tài sản) của ông A thì tòa vẫn thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.

Hướng dẫn thời điểm bắt đầu thời hiệu yêu cầu

Theo Nghị quyết 03, không áp dụng thời hiệu yêu cầu trong các trường hợp sau: Yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự. Hay yêu cầu tuyên bố một người mất tích, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích; yêu cầu tuyên bố một người đã chết, yêu cầu hủy bỏ quyết định tuyên bố một người đã chết…

Trước đây, một điểm làm các thẩm phán lúng túng là xác định thời điểm bắt đầu thời hiệu yêu cầu. Vì vậy, Nghị quyết 03 hướng dẫn thời điểm này được tính từ ngày phát sinh quyền yêu cầu. Ví dụ: Theo Điều 45 Luật Công chứng thì công chứng viên, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người có quyền và lợi ích liên quan, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có quyền đề nghị tòa tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu khi có căn cứ cho rằng việc công chứng vi phạm pháp luật. Trong trường hợp này, thời điểm bắt đầu thời hiệu yêu cầu được tính từ ngày biết được việc công chứng có vi phạm pháp luật.

Khởi kiện đặc biệt: Phải có chứng thực

Một vướng mắc khác đối với nhiều tòa, nhiều thẩm phán là trường hợp khởi kiện của người không biết chữ, không nhìn được, không thể tự mình làm đơn khởi kiện, không thể tự mình ký tên hoặc điểm chỉ.

Để giải quyết vướng mắc, Nghị quyết 05 ngày 3-12-2012 của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hướng dẫn rõ là những người này có thể nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện nhưng phải có người làm chứng (có đầy đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự). Người làm chứng phải ký xác nhận việc khởi kiện và nội dung khởi kiện vào đơn khởi kiện trước mặt người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã. Người có thẩm quyền chứng thực của UBND cấp xã chứng nhận trước mặt người khởi kiện và người làm chứng.

Bên cạnh đó, Nghị quyết 05 cũng hướng dẫn về quyền khởi kiện của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi. Những người này nếu không mất năng lực hành vi dân sự, không bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, đã tham gia lao động theo hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự bằng tài sản riêng thì có thể tự mình hoặc nhờ người khác làm hộ đơn khởi kiện vụ án về tranh chấp có liên quan đến hợp đồng lao động hoặc giao dịch dân sự đó.

Thẩm phán lấy lời khai đương sự

Việc lấy lời khai của đương sự phải do thẩm phán tiến hành. Thư ký tòa án chỉ có thể giúp thẩm phán ghi lời khai của đương sự vào biên bản. Trường hợp vì lý do công tác hoặc trở ngại khách quan, thẩm phán có thể giao cho thư ký tòa án tiến hành lấy lời khai nếu đương sự đồng ý. Biên bản ghi lời khai phải có xác nhận của thẩm phán…

Trích khoản 2 Điều 6 Nghị quyết 04/2012 của Hội đồng
Thẩm phán TAND Tối cao

HOÀNG YẾN

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)

MUA BÁN SÁP NHẬP: KIÊN NHẪN VƯỢT QUA BẤT ĐỒNG

09/08/2013 10:06 (GMT + 7) TT – Tại diễn đàn Mua bán sáp nhập (M&A) 2013 do báo Đầu Tư tổ chức ngày 8-8, các chuyên gia khẳng định thông qua các vụ M&A, nhiều doanh nghiệp có cơ hội phát triển mạnh lên, nhưng cũng có không ít thương hiệu biến mất.

Ông Võ Trí Thành phát biểu tại diễn đàn Mua bán sáp nhập 2013 – Ảnh: T.Đạm

Làm sao để “sống chung” với đối tác một cách hòa thuận mà không bị thôn tính luôn là một thách thức của doanh nghiệp VN.

Xu hướng tất yếu

Ông John Ditty, chủ tịch kiêm giám đốc Công ty KPMG VN, khẳng định dù số lượng giao dịch M&A tại VN trong nửa đầu năm 2013 giảm nhẹ, nhưng diễn biến thị trường nửa năm còn lại sẽ sáng sủa hơn, khi các thương vụ đang trong giai đoạn thực hiện tiến tới hoàn tất. “Đến cuối năm 2013, con số thương vụ mua bán sáp nhập và phát hành cổ phần riêng lẻ ở VN có thể xấp xỉ bằng năm ngoái với khoảng 300 thương vụ” – ông John Ditty dự báo.

Theo ông Đặng Xuân Minh – Công ty AVM Vietnam, trước năm 2009 nói đến M&A người ta chỉ nghĩ đến các thương vụ nước ngoài mua lại hoặc đầu tư vào doanh nghiệp VN. Tuy vậy, kể từ năm 2009-2013, hiện tượng các doanh nghiệp VN thực hiện M&A đã ngày càng phổ biến và chiếm khoảng 40% tổng giá trị thương vụ M&A tại VN. Có thể nhìn thấy qua những câu chuyện tăng trưởng từ các thương vụ M&A của Masan, Kinh Đô, Hùng Vương, Vingroup, Viettel, Doji…

Ông Masataka “Sam” Yoshida, giám đốc điều hành cấp cao RECOF, cho biết VN đứng thứ năm về các thương vụ M&A của doanh nghiệp Nhật Bản ở nước ngoài, đa số doanh nghiệp Nhật đều có mối quan tâm về hoạt động đầu tư tại VN. Các lĩnh vực sáng giá như sản xuất hàng tiêu dùng, dược, nông nghiệp và bán lẻ rất hấp dẫn các nhà đầu tư gắn với sự gia tăng dân số, tầng lớp trung lưu, kinh tế phát triển ở VN.

Dự báo về thị trường M&A thời gian tới, ông David Blackhall – giám đốc điều hành VinaLand – cho biết hiện rất nhiều nhà đầu tư quốc tế nhờ VinaLand tìm hiểu và cung cấp thông tin về cơ hội trên lĩnh vực bất động sản và các ngành nghề sản xuất khác. “So với một số nước trong khu vực, VN vẫn đảm bảo được mức độ an toàn hơn, vì vậy sẽ có nhiều M&A diễn ra trong thời gian tới” – ông David Blackhall nhấn mạnh.

“Bán mình” không dễ

Ông Cao Tiến Vị, chủ tịch HĐQT Công ty Giấy Sài Gòn, kể vào năm 2011, đứng trước con đường tìm đối tác chiến lược mở rộng phát triển thương hiệu hay thu hẹp hoạt động sản xuất, doanh nghiệp này đã chấp nhận hợp tác với đối tác Nhật Bản với tỉ lệ tăng dần lên đến 48% cổ phần. Mục tiêu lúc ấy là nhằm mở rộng thị trường, tiếp cận được toàn diện về kỹ thuật, công nghệ, quản lý, đào tạo nguồn nhân lực từ Công ty Daio, một công ty sản xuất giấy đứng thứ 3 ở Nhật.

Sau ba năm hợp tác, ông Vị thừa nhận không phải mục tiêu nào cũng đạt được. Tăng trưởng vẫn giữ đều nhưng hiệu quả thì hạn chế hơn do có nhiều sự thay đổi. Mục đích xuất khẩu mở rộng sang thị trường Nhật Bản cũng không đạt được, do Giấy Sài Gòn vẫn tự thân vận động. Đối tác không giúp được nhiều vì cũng gặp khó khăn ở thị trường nội địa Nhật Bản, thành ra về chiến lược lâu dài đặt ra như ban đầu xem như thất bại.

“Thật ra, Giấy Sài Gòn có đặc thù riêng, gặp đối tác khá tử tế nên cũng qua được nhiều sóng gió. Tuy vậy trong quá trình hợp tác có không ít bất đồng mà mình phải kiên nhẫn để vượt qua. Những va chạm ấy khó để nói đúng sai mỗi bên nhưng đến bây giờ cũng tạm ổn, doanh nghiệp có nhiều cơ hội phát triển thêm” – ông Cao Tiến Vị nói. Theo ông Vị, M&A còn liên quan đến quan điểm kinh doanh và năng lực tài chính. Doanh nghiệp VN thiếu kinh nghiệm khó chống đỡ nổi trước nước cờ “cá lớn nuốt cá bé” của doanh nghiệp nước ngoài.

Một lãnh đạo Công ty cổ phần Bánh kẹo Biên Hòa (Bibica) từng cay đắng thừa nhận đã sai lầm khi nhắc đến mối quan hệ hợp tác với Lotte. Vị này chia sẻ thời gian qua “hôn nhân” với Lotte diễn ra không như mong muốn, nếu như không muốn nói là đi ngược lại mục tiêu ban đầu. Hàng loạt mâu thuẫn trong chiến lược phát triển, quản trị doanh nghiệp liên tiếp xảy ra, mà đỉnh điểm là việc Lotte muốn đổi tên Bibica thành Lotte – Bibica. “Khi một người lạ vào nhà, họ muốn chi phối mình thì ắt sẽ xảy ra lục đục, nhất là khi đụng chạm đến quyền lợi” – vị này nói.

Theo ông John Ditty, những nghiên cứu gần đây cho thấy các doanh nghiệp VN vẫn còn khá chật vật thay đổi sau khi vốn ngoại đổ vào như thay đổi quản trị doanh nghiệp, cơ cấu nhân sự… Thực tế để tìm được đối tác mạnh có cùng tầm nhìn, con đường phát triển trên thị trường ở VN là không dễ. Ông Ditty cho rằng hầu hết những M&A thất bại là do hai bên thiếu sự tin tưởng lẫn nhau. Không tìm được tiếng nói chung trong chiến lược phát triển, mục tiêu lâu dài.

Trong khi đó, ông Masataka “Sam” Yoshida – giám đốc điều hành cấp cao RECOF, đơn vị từng thực hiện hơn 1.000 thương vụ M&A, trong đó có vài chục thương vụ giữa doanh nghiệp Nhật Bản và VN – cho rằng trong M&A, cả bên mua lẫn bên bán đều mong muốn điều có lợi nhất, phải dung hòa, uyển chuyển thì mới tìm được lối ra. “Không nên quá lo lắng sẽ bị thôn tính vì M&A là xu thế tất yếu, quan trọng là chọn đúng đối tác, và bản thân doanh nghiệp phải chuẩn bị thật tốt về nội lực, chiến lược phát triển, quản trị…” – ông Masataka “Sam” Yoshida nói.

NHƯ BÌNH

(Nguồn: Báo tuổi trẻ)

Cần hỗ trợ thủ tục pháp lý

Nói về những vấn đề khó của các thương vụ M&A, Thứ trưởng Bộ Kế hoạch – đầu tư Đặng Huy Đông cho biết đến nay VN vẫn chưa có nghiên cứu nào bài bản về khung pháp lý cho lĩnh vực này. M&A không có ranh giới rõ ràng vì bị chi phối nhiều lĩnh vực, quy định khác nhau. Theo ông Đông, thời gian tới cần có sự quan tâm đúng mức để có thể có nền tảng về pháp lý cho doanh nghiệp vận dụng trong các giao dịch M&A. Ông Võ Trí Thành – phó viện trưởng Viện Quản lý kinh tế trung ương – nhận định M&A là lĩnh vực khó có khuôn mẫu rõ ràng do liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp lý, môi trường xã hội, độ mở của nền kinh tế, rồi cấu trúc của doanh nghiệp, đến sự chia sẻ lợi ích của doanh nghiệp…

ÁN XỬ ĐI XỬ LẠI – BÀI 1: BỊ HỦY ÁN, XỬ LẠI Y NHƯ CŨ

19/08/2013 – 06:15

Có những vụ án kéo dài vì quan điểm của các cấp tòa khác nhau, thậm chí không ít vụ cấp giám đốc thẩm hủy án, sau đó cấp dưới xử lại y như cũ…

Những ngày này, bà Nguyễn Thị Hạnh (ngụ khu phố 2, thị trấn Dầu Tiếng, Dầu Tiếng, Bình Dương) đang đôn đáo gửi đơn kiến nghị giám đốc thẩm vụ tranh chấp quyền sử dụng đất mà chồng bà là bị đơn. Chồng bà mắc bệnh hiểm nghèo nên đã qua đời khi vụ án kéo dài hơn bảy năm qua chưa giải quyết xong. Bà Hạnh phải “đóng hai vai”, vừa là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vừa là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của chồng.

Kiện con đòi đất

Trong vụ kiện này, nguyên đơn là bà Phạm Thị Ngọc Như, mẹ ruột của chồng bà Hạnh. Theo đơn khởi kiện của bà Như, năm 1988, bà giao cho chồng bà Hạnh (con trưởng) quản lý, sử dụng khoảng 5.000 mđất. Năm 1995, bà Như và bốn người con khác làm thỏa thuận công nhận phần đất trên là tài sản chung chưa chia, chỉ để cho chồng bà Hạnh tạm thời canh tác. Năm 2001, bà Như ký tên cho đứt chồng bà Hạnh hơn 1.000 m(trong tổng diện tích 5.000 m2 đang giao cho chồng bà Hạnh quản lý, sử dụng). Sau đó, chồng bà Hạnh làm thủ tục kê khai hơn 1.000 m2này chung với phần đất mà ông khai hoang mở rộng, đến năm 2002 thì được cấp giấy đỏ đứng tên ông.

Chồng bà Hạnh và phần đất tranh chấp. Ảnh: CTV

Đầu năm 2006, bà Như khởi kiện đòi lại hơn 1.000 m2 đất đã cho chồng bà Hạnh. Chồng bà Hạnh không đồng ý, cho rằng sau khi bà Như cho đất, ông đã nhập vào phần đất khai hoang, mở rộng thêm rồi kê khai, được cấp giấy đỏ, nay bà Như đòi lại là không có cơ sở. Chưa kể, sau đó ông đã cắt đất để cho con gái và đã được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận, cấp giấy đỏ riêng…

Mỗi tòa một quan điểm

Tháng 7-2006, TAND huyện Dầu Tiếng đã xử sơ thẩm lần đầu, chấp nhận yêu cầu của bà Như, buộc chồng bà Hạnh phải trả lại hơn 1.000 m2đất đang tranh chấp. Tòa cũng kiến nghị UBND huyện thu hồi các giấy đỏ để điều chỉnh lại cho phù hợp…

Chồng bà Hạnh kháng cáo. Đầu năm 2007, TAND tỉnh Bình Dương xử phúc thẩm lần đầu, quyết định như án sơ thẩm nhưng có sửa chữa nội dung là buộc chồng bà Hạnh và con gái phải trả lại cho bà Như 1.080 m2 đất. Tòa cũng buộc bà Như phải hoàn lại cho người con gái của vợ chồng bà Hạnh hơn 75 triệu đồng tiền đã xây nhà, đầu tư trên đất…

Chồng bà Hạnh làm đơn khiếu nại giám đốc thẩm. Tháng 1-2010, chánh án TAND Tối cao đã ra quyết định kháng nghị giám đốc thẩm theo hướng hủy cả hai bản án sơ, phúc thẩm vì có vi phạm nghiêm trọng cả về thủ tục lẫn việc xác định chứng cứ. Bởi lẽ ngoài lời khai thì bà Như không xuất trình được chứng cứ chứng minh đất của bà chính là phần đất mà chồng bà Hạnh đang sử dụng. Trường hợp nếu đúng thì việc hai cấp tòa tuyên chồng bà Hạnh phải trả đất cho bà Như cũng không chính xác…

Năm tháng sau, Tòa Dân sự TAND Tối cao đã họp phiên giám đốc thẩm, chấp nhận kháng nghị của chánh án TAND Tối cao và tuyên hủy hai bản án trên, giao hồ sơ về cho TAND huyện Dầu Tiếng xử sơ thẩm lại. Tòa Dân sự nhận định: Bà Như đòi chồng bà Hạnh trả lại một phần đất mà ông đang sử dụng và đã được cấp giấy. Chồng bà Hạnh thì cho rằng ngoài đất mẹ cho, ông còn khai hoang mở rộng thêm và đều được cấp giấy đỏ. Lẽ ra tòa hai cấp phải làm rõ thửa đất mà chồng bà Hạnh đang sử dụng có đúng là thửa đất của bà Như hay không, có việc chồng bà Hạnh khai hoang mở rộng thêm hay không, nếu có thì diện tích bao nhiêu. Mặt khác, chồng bà Như (tức cha chồng bà Hạnh) chết từ năm 1984, đã hết thời hiệu khởi kiện chia phần đất di sản thừa kế của ông này để lại. Án sơ, phúc thẩm chưa làm rõ phần đất này do ai đang quản lý, sử dụng.

Bên cạnh đó, về mặt tố tụng, hai cấp tòa sơ, phúc thẩm còn thiếu sót khi không đưa bốn người em của chồng bà Hạnh vào tham gia tố tụng để làm rõ việc chồng bà Hạnh có được mẹ cho đất hay không, nếu có thì cho bao nhiêu. Ngoài ra, hai cấp tòa cũng không đưa bà Hạnh vào tham gia tố tụng là không đúng…

Trên “chỉ”, dưới không “nghe”

Tháng 8-2011, TAND huyện Dầu Tiếng đã xử sơ thẩm lần hai, chỉ bổ sung thiếu sót về tố tụng bằng cách đưa bà Hạnh và bốn người em của chồng bà Hạnh tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Về mặt nội dung, tòa vẫn tuyên y như lần xử trước, buộc chồng bà Hạnh phải trả cho bà Như hơn 1.000 m2 đất.

Chồng bà Hạnh lại kháng cáo. Trong thời gian chờ TAND tỉnh Bình Dương xử phúc thẩm lần hai thì ông bị bệnh nặng và qua đời. Lúc này, bà Hạnh thừa kế nghĩa vụ của chồng và tiếp tục theo đuổi vụ kiện. Tháng 1-2013, TAND tỉnh Bình Dương đã xử phúc thẩm lần hai, tiếp tục sửa một phần án sơ thẩm nhưng vẫn công nhận cho bà Như phần diện tích đất tranh chấp.

Sau phiên phúc thẩm, bà Hạnh lại gửi đơn khiếu nại giám đốc thẩm đề nghị hủy hai bản án trên. Bà cho rằng trong quá trình giải quyết lại vụ kiện, hai cấp tòa sơ, phúc thẩm chưa làm rõ các thiếu sót mà quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của chánh án TAND Tối cao và quyết định giám đốc thẩm của Tòa Dân sự TAND Tối cao đã chỉ ra…

Một số vụ xử đi xử lại

– Năm 1990, bà T. mua một căn nhà ở quận 7 (TP.HCM) nhưng không có hộ khẩu TP nên nhờ ông S. đứng tên giùm. Sau đó ông S. vi phạm pháp luật, bị khởi tố, căn nhà cũng bị kê biên để đảm bảo thi hành án. Bà T. khởi kiện yêu cầu được trả lại nhà. Xử sơ thẩm lần đầu, TAND TP tuyên trả nhà cho bà. Sau đó, Tòa Phúc thẩm TAND Tối cao tại TP.HCM lại cho rằng nhà thuộc sở hữu của ông S. Hai bản án sơ, phúc thẩm bị TAND Tối cao họp giám đốc thẩm hủy. Vụ kiện quay lại từ đầu, rồi hai bản án sơ, phúc thẩm lần hai lại bị TAND Tối cao hủy… Tổng cộng, thời gian giải quyết vụ án này kéo dài đến hơn 10 năm.

– Trước đây, Pháp Luật TP.HCM từng phản ánh một vụ tranh chấp mua bán nhà tại quận Bình Thạnh (TP.HCM). Trong hợp đồng mua bán có điều khoản cho phép các bên đương sự có quyền đổi ý và bị chế tài tương ứng. Sau đó bên bán không bán nữa nên xảy ra tranh chấp, phải ra tòa. Quá trình xét xử, các cấp tòa có nhiều quan điểm khác nhau nên vụ án phải trải qua hai lần xử phúc thẩm, hai lần cấp giám đốc thẩm hủy án yêu cầu xử lại. Các cấp tòa cứ xử đi xử lại suốt gần 20 năm trời…

THANH TÙNG

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)

ÁN XỬ ĐI XỬ LẠI – BÀI 2: XỬ THEO TÒA CẤP TRÊN, CÓ ĐỘC LẬP?

20/08/2013 – 06:15

Để khắc phục án xử đi xử lại vẫn như cũ, Chánh án TAND Tối cao Trương Hòa Bình kiến nghị quy định tòa cấp dưới phải tuân theo đường lối xét xử của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao. Kiến nghị này đã gây tranh cãi…

Tại phiên trả lời chất vấn của Quốc hội hồi tháng 6-2013, Chánh án TAND Tối cao Trương Hòa Bình cho rằng có tình trạng án xử đi, xử lại và các tòa án cấp dưới không tuân theo đường lối của cấp trên: Cụ thể là đường lối thể hiện trong kháng nghị của viện trưởng VKSND Tối cao, chánh án TAND Tối cao và án giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao và các tòa chuyên trách.

Xét xử phải có điểm dừng?

Chánh án Trương Hòa Bình nói: “Báo cáo với Quốc hội, chúng ta theo một cơ chế có phá án. Tức là khi thấy bản án có những căn cứ vi phạm pháp luật, chánh án hoặc viện trưởng kháng nghị thì Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao sẽ xét xử lại một số bản án theo thẩm quyền và sau đó sẽ ban hành quyết định giám đốc thẩm. Nhưng cũng có một số trường hợp, tòa án cấp dưới xét xử lại nhưng không tuân theo đường lối giám đốc thẩm và xét xử lại có khi lại trở lại như bản án đã bị kháng nghị”.

Theo ông Bình, đây là một vấn đề lớn trong tố tụng liên quan đến việc quy định của pháp luật: “Chúng tôi đã kiến nghị với Quốc hội trong việc sửa đổi Hiến pháp và sắp tới đây sẽ đưa vào sửa đổi các luật theo hướng quy định tòa cấp dưới có nghĩa vụ phải tuân theo đường lối xét xử của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao”.

Vụ kiện của ông Phạm Thanh Tùng (huyện Dầu Tiếng, Bình Dương) phải kéo dài hơn bảy năm vì án xử đi xử lại. Ảnh: CTV

Kiến nghị của ông Bình được một số chuyên gia đồng tình vì cho rằng việc xét xử phải có điểm dừng, không thể kéo dài lê thê mãi.

Theo PGS-TS Đỗ Văn Đại (Trưởng khoa Luật dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM), nếu cùng một vụ việc mà luôn có sự khác nhau về nhận thức giữa các cấp tòa thì đến một thời điểm nào đó cũng nên theo đường lối xét xử của TAND Tối cao. Chẳng hạn, nếu TAND Tối cao đã xử giám đốc thẩm lần thứ hai mà các tòa sơ, phúc thẩm vẫn bảo vệ quan điểm ban đầu của mình thì đến lần xử giám đốc thẩm thứ ba, TAND Tối cao có quyền yêu cầu cấp dưới phải tuân theo đường lối xét xử của mình để đảm bảo tính ổn định của pháp luật.

Ông Đại cho rằng cơ chế trên phù hợp với hệ thống luật thành văn như ở Việt Nam. Thực tế đã chứng minh là nước Pháp – một nước theo hệ thống luật thành văn đã áp dụng thành công cơ chế này: Bộ luật Tổ chức tòa án của Pháp quy định nguyên tắc nếu Tòa án Tối cao đã hủy án một lần rồi mà tòa án địa phương vẫn không nghe theo quan điểm của Tòa án Tối cao thì Tòa án Tối cao sẽ triệu tập Hội đồng Thẩm phán. Hội đồng này sẽ ra một quyết định mang tính ràng buộc theo hướng ở lần xét xử thứ hai, tòa án địa phương phải tuân theo quyết định của Hội đồng Thẩm phán.

Vi phạm nguyên tắc xét xử độc lập?

Ngược lại, nhiều chuyên gia băn khoăn rằng nếu buộc tòa cấp dưới phải tuân thủ đường lối xét xử giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao thì sẽ triệt tiêu một nguyên tắc cơ bản là thẩm phán và hội thẩm nhân dân xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Theo luật sư Nguyễn Thế Phong (Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Long An), nước ta đang cải cách tư pháp theo hướng nâng cao tính chịu trách nhiệm của thẩm phán. Chuyện mỗi cấp tòa, mỗi thẩm phán bảo vệ quan điểm của mình, về bản chất cũng là tôn trọng quyền suy nghĩ của thẩm phán, không bị lệ thuộc trong tư duy nhận thức pháp luật. Nếu bắt họ phải theo đường lối xét xử của cấp trên thì sẽ tạo ra tình trạng xử án theo chỉ đạo, không ai chịu trách nhiệm cuối cùng về phán quyết của mình.

“Đây không phải là cách hay để khắc phục tình trạng án xử đi xử lại mà phải dùng biện pháp đúc kết kinh nghiệm xét xử hằng năm trong ngành để các thẩm phán hiểu và thống nhất chung về nhận thức. Lúc đó tự khắc các thẩm phán, các cấp tòa phải tự nhìn lại mình và có được tiếng nói chung” – luật sư Phong nói.

Đồng tình, luật sư Trần Công Ly Tao (Phó Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP.HCM) khẳng định: “Nguyên tắc xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật có thể coi là kim chỉ nam trong Hiến pháp và hệ thống pháp luật. Do đó không thể sửa các luật tố tụng về vấn đề đã thuộc về nguyên tắc này mà phải tôn trọng nó. Thà chấp nhận việc án bị kéo dài vì xử đi xử lại chứ không thể vi phạm nguyên tắc”.

Nhiều nguyên nhân

Tình trạng án xử đi xử lại trên thực tế có nhiều nguyên nhân, có khi chỉ vì thiếu sót tố tụng chứ chưa hẳn là quan điểm khác nhau về chứng cứ, nội dung. Một hạn chế khác là trong án giám đốc thẩm, nhiều khi Hội đồng Thẩm phán TAND Tối cao hủy án nhưng không định hướng cho cấp dưới, khiến họ phải quyết định theo nhận thức của mình. Đó là chưa kể vẫn còn tình trạng “án bỏ túi”, tức khi xử lại, mặc dù là hội đồng xét xử khác nhưng vẫn xử theo định hướng của lãnh đạo tòa. Lúc này thẩm phán cũng không thể độc lập trước pháp luật.

PGS-TS ĐỖ VĂN ĐẠI, Trưởng khoa Luật dân sự Trường ĐH Luật TP.HCM

Hậu quả khó lường

Nếu cứ khác nhau về nhận thức và áp dụng pháp luật mà phải theo ý của tòa cấp trên thì còn gì là phiên tòa tranh tụng, còn gì là cải cách tư pháp? Vai trò của luật sư và quyền được bảo vệ của đương sự sẽ bị triệt tiêu. Đó là chưa kể nếu đường lối của tòa cấp trên không đúng, không chính xác, thiếu khách quan thì việc nghe theo này hậu quả sẽ rất khó gỡ. Ngay cả sau khi TAND Tối cao phát triển án lệ thì cũng chỉ để thẩm phán tham khảo chứ không mang tính bắt buộc bởi không gì có thể thay thế được quy định pháp luật.

Một kiểm sát viên cao cấp VKSND Tối cao

THANH TÙNG

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)

NÂNG MỨC TRỢ CẤP ĐỐI VỚI NGƯỜI CÓ CÔNG

07/09/2013 – 06:50

(PL)- Chính phủ vừa quyết định nâng mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng từ 1.110.000 đồng lên 1.220.000 đồng.

Đây là mức chuẩn để xác định các mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng. Quy định có hiệu lực từ ngày 20-10 và việc tăng phụ cấp, trợ cấp sẽ được tính từ ngày 1-7-2013.

Theo quy định mới, mức phụ cấp, trợ cấp được tính: Trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân của một liệt sĩ là 1.220.000 đồng/tháng, hai liệt sĩ là 2.440.000 đồng/tháng; ba liệt sĩ trở lên, mức trợ cấp là 3.660.000 đồng (quy định cũ chỉ quy định chung trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân của hai liệt sĩ trở lên là 1.983.000 đồng/tháng). Bà mẹ Việt Nam anh hùng cũng được hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng theo mức trợ cấp tiền tuất đối với thân nhân liệt sĩ như trên và hưởng phụ cấp 1.023.000 đồng/tháng. Bổ sung mức trợ cấp đối với người phục vụ bà mẹ Việt Nam anh hùng sống ở gia đình là 1.220.000 đồng/tháng (nghị định cũ không quy định đối tượng này).

Đ.LIÊN

(Nguồn: Báo Pháp luật Tp.HCM)

BỎ GHI HỌ TÊN CHA VÀ MẸ TRÊN CHỨNG MINH NHÂN DÂN

18/09/2013 – 18:36

Ngày 17/9, Chính phủ đã ban hành Nghị định 106/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 05/1999/NĐ-CP ngày 3/2/1999 của Chính phủ về Chứng minh nhân dân đã được sửa đổi, bổ sung bằng Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007. Theo Nghị định mới, sẽ bỏ phần ghi tên cha, mẹ trên chứng minh nhân dân. Bỏ cụm từ “họ và tên cha,” “họ và tên mẹ” tại mặt sau của chứng minh nhân dân.

Ngoài ra, bổ sung cụm từ “Độc lập-Tự do-Hạnh phúc” vào bên dưới cụm từ “Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” tại mặt trước chứng minh nhân dân.

Về thời gian cấp mới, đổi, cấp lại chứng minh nhân dân, theo Nghị định 05/1999/NĐ-CP, kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ và làm xong thủ tục theo quy định, cơ quan công an phải làm xong chứng minh nhân dân cho công dân trong thời gian sớm nhất, tối đa không quá 15 ngày (ở thành phố, thị xã) và 30 ngày (ở địa bàn khác).

Tại Nghị định 106/2013/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung như sau: kể từ ngày nhận đủ giấy tờ hợp lệ và làm xong thủ tục theo quy định, cơ quan Công an phải làm xong chứng minh nhân dân cho công dân trong thời gian sớm nhất.

Thời gian giải quyết việc cấp chứng minh nhân dân tại thành phố, thị xã là không quá 7 ngày làm việc đối với trường hợp cấp mới, cấp đổi; 15 ngày làm việc đối với trường hợp cấp lại. Còn tại các huyện miền núi vùng cao, biên giới, hải đảo, thời gian giải quyết việc cấp chứng minh nhân dân đối với tất cả các trường hợp là không quá 20 ngày làm việc; các khu vực còn lại thời gian giải quyết việc cấp chứng minh nhân dân là không quá 15 ngày làm việc đối với tất cả các trường hợp.

Nghị định có hiệu lực thi hành từ ngày 2/11/2013.

Đối với chứng minh nhân dân đã được cấp theo Nghị định 170/2007/NĐ-CP ngày 19/11/2007 của Chính phủ vẫn có giá trị sử dụng đến hết thời hạn theo quy định./. (Theo TTXVN)

TỪ 15-10, PHẠT NGƯỜI ĐI ĐÒ KHÔNG MẶC ÁO PHAO

17/09/2013 – 23:45

(PL)- “Từ ngày 15-10 (ngày Nghị định 93/2013 có hiệu lực thi hành), Thanh tra Sở GTVT sẽ xử phạt khách đi đò không mặc áo phao đến 200.000 đồng.

Người lái đò nếu không mang theo hoặc không có chứng chỉ huấn luyện an toàn hoặc chứng chỉ nghiệp vụ sẽ bị phạt đến 500.000 đồng…” – ngày 17-9, ông Nguyễn Bật Hận, Phó Chánh Thanh tra Sở GTVT TP.HCM, cho biết.

Từ ngày 15-10, người đi đò không mặc áo phao sẽ bị phạt đến 200.000 đồng.

Những ngày qua, Thanh tra GTVT đã mở đợt tuyên truyền tại 36 bến đò ngang trên địa bàn TP về việc thực hiện nghiêm Nghị định 93/2013 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông hàng hải, đường thủy nội địa.

Theo Nghị định 93, chánh Thanh tra Sở GTVT có quyền phạt tiền đến 37,5 triệu đồng; tước quyền sử dụng giấy phép hoạt động, bằng, chứng chỉ chuyên môn hoặc chứng chỉ hành nghề… của người lái, chủ tàu, chủ bến thủy nội địa.

L.ĐỨC – H.TUYÊN

(Nguồn: Báo Pháp Luật Tp.HCM)